• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

1001 CÂU CHUYỆN CẢM ĐỘNG!!!

Status
Không mở trả lời sau này.

CongVoi

Super V.I.P
Sau gần sáu mươi cây số chạy xe và hơn một giờ đi bộ, họ tới nhà mộ Tà Ôi giữa thung lũng hoang vắng. Tuấn phải rút dao nhíp cắt bớt những nùi dây leo quấn quýt bít lối đi để đưa Manu vào đến tận nơi.

Mặt trời nghiêng xuống chiếu vào cây cột lớn trong nhà mồ, rọi những tia dữ dội lên hình mặt người khắc trên cột. Phía sau cột cái, một dãy quan tài nằm cạnh nhau, mỗi quan tài là một thân cây đẽo vuông vức. Manu đến chỗ quan tài lớn nhất, đặt lên đấy bó hoa hồng trắng. Bó hoa đã hơi ủ rũ sau nửa ngày đường, nhưng vẫn rất thơm, thơm ngát.

Hoa hồng trắng của một người phương Tây nơi nhà mộ hoang vu này... Tuấn thầm nghĩ. Manu lấy ra một gói lớn, bà ta trầm tư một lát rồi mở gói, đặt lên nắp quan tài những nén bạc lớn. Tuấn đếm được tất cả ba mươi nén bạc.

Họ liên quan gì đến nhau, Manu và những người chết ở đây? Tuấn nghĩ thầm nhưng không dám hỏi. Manu đã xăm xăm trở ra giữa hai bờ cỏ tranh. Tuấn chăm chú nhìn vào mái tóc quăn cuốn cao trên cái ót đầy đặn. Anh chăm chú quan sát vẻ mạnh mẽ uyển chuyển kỳ lạ trong từng cử chỉ của người đàn bà: Vẻ bí ẩn bao quanh bà ta giống như một thứ men rượu, kích thích và gieo vào anh một sự hưng phấn mãnh liệt.

Trời đã sẫm chiều. Khi ra đến chỗ để xe hơi, Manu ngồi bệt xuống vệ cỏ. Tuấn trải tờ báo ra, bày mấy thức ăn khô có sẵn trong xe. Manu uể oải nhai mẩu bánh mì với một lát xúc xích. Phần Tuấn đã đói cồn cào, anh ngốn hết những thứ đã mang theo. "Manu, mình về thôi". Manu nhìn lên, mặt tái xanh. Lúc đó Tuấn mới nhận ra dưới vẻ mạnh mẽ và tự kiềm chế, người đàn bà đang xúc động cực độ. Anh hốt hoảng: "Manu, chị cần phải nghỉ một chút. Tôi đưa chị vào làng nhé?". Nghe câu nói của anh, Manu giật mình: "Khỏi cần, tôi không vào đâu, trên xe được rồi".

Tuấn lật ghế xuống, tạo thành hai cái giường song song. Manu ngả lưng xuống băng ghế sau, vẻ như kiệt sức. Tuấn giúp Manu kê đầu lại cho ngay ngắn, cởi giúp bà ta đôi giày đang bó chặt lấy cổ chân. Anh do dự không biết có nên giúp Manu nới những cái móc, cái cúc tế nhị hơn không. Rồi có lẽ được cảnh hoang vắng chung quanh khuyến khích, anh ôm choàng lấy Manu, ngực sát vào ngực người đàn bà. Hai bàn tay anh vuốt từ dưới gáy đến đôi vai, rồi dọc theo lưng, bằng cách đó anh làm cho người đàn bà thư giãn và tỉnh táo lại sau cơn xúc động. Mặt bà ta hồng lên, mắt mở. Tuấn cúi xuống, những lọn tóc rũ trước trán khiến khuôn mặt anh mang một vẻ buông thả mê muội. "Xem kìa, Tuấn, sao vậy?". Manu hỏi. Tuấn nói, không quanh co:

- Tôi thích chị.

Manu ngồi dậy, nói như hụt hơi:

- Cảm ơn, nhưng tôi không thể... Tôi lại có cảm tưởng như ở trong lễ pok ruông. Tôi sợ đến không thở được.

Tuấn bóp trán Manu, vầng trán giờ đây lạnh buốt, anh phải cố cho hơi ấm trong tay anh thấm vào.

"Đừng sợ, chị sẽ dễ chịu lại ngay thôi mà".

Trong tay anh, mạch cổ tay của Manu dần đập đều trở lại. Tuấn lấy tấm chăn có sẵn trong xe phủ lên người Manu. "Anh muốn biết pok ruông là gì phải không? Cứ ngồi với tôi một chút, tôi sẽ kể cho anh nghe".

Tuấn là người phóng túng, nhưng khi cần anh biết kiềm chế bản thân. Thôi không quấy Manu nữa, anh ngoan ngoãn ngồi bên bà ta trong tấm chăn ấm. Bên ngoài, sương xuống ướt ròng trên kính xe, chung quanh trời đất tối mịt thành một khối đen vô tận
 

CongVoi

Super V.I.P
Kalang Nga vừa đi vừa thút thít khóc. Lúa đã về nhà rồi, chỉ còn nửa con trăng nữa là đến Tết. Tế thần Yang Tro xong, cả nhà sẽ được ăn cơm mới. Nhưng năm nay thì không được rồi. Nhà Aviet đã giục đón dâu, chỉ năm sáu bữa nữa là phải ra đi.
Kalang Nga mười hai tuổi. Cả bản làng khen cô đẹp, phơi phới như lúa đầu mùa. Những người già nói Kalang Nga giống mẹ. Mẹ chỉ còn là người đàn bà đen đúa, gầy còm sau nhiều năm vất vả. Vậy mà ngày còn trẻ mẹ Kalang Nga nổi tiếng đẹp nhất vùng, có tài dệt thổ cẩm rất khéo, cha Kalang Nga đã phải đi vay ở nhà Aviet để nạp tiền "văn" - tiền thách cưới - mới đủ. Vì món nợ ấy, Kalang Nga vừa lọt lòng đã được chủ nợ đặt cọc. Bây giờ, mẹ Kalang Nga đã chuẩn bị cho con váy, áo và chiếu nằm. Kalang Nga bứt tóc van vỉ. "Cho con ăn cơm mới ở nhà ". Mẹ Kalang Nga lắc đầu:

- Không được đâu. Nhà trai đòi đón dâu từ hồi con năm tuổi. Khất nhiều nhiều rồi, không khất thêm được đâu.

Cha Kalang Nga thì trừng mắt bảo con:

- Mày làm dâu nhà Aviet là có phước lắm rồi, làm dâu nhà sang, được đeo dây Katteng ngàn sợi, không hơn ở nhà khó quanh năm ăn củ nưa à.
Người lớn đã nói vậy, Kalang Nga chỉ còn biết nuốt nước mắt thôi. Bên nhà Aviet đã nối thêm gian mới. Aviet Khất giàu có, nhiều vợ, nhiều con cháu, nhà dài đến chín gian. Kalang Nga chưa đến gần bao giờ, nhưng cô bé sợ ông ta, sợ lắm. Aviet Khất là người thợ săn hùng mạnh và cũng rất hung dữ. Một lần khi lên tám tuổi, Kalang Nga đã nhìn thấy người vợ thứ ba nhà Aviet bị xử tội. Người đàn bà bị buộc vào sau ngựa và bị kéo lê đi khắp xóm, thân hình đầy máu.

Một hôm trước ngày đón dâu, cô bé đã chạy đến nhà Pasieng Rêm, người lái buôn thường về xuôi buôn bán sau mùa gặt. "Bác Rêm, cháu có nhiều đồ quý, bác bán giùm cháu được không?" Cô bé vừa hổn hển nói vừa quỳ xuống, buông vạt váy mà cô đang lật lên, khư khư bụm lấy trước bụng. Một mớ hòn cuội trong, nhẵn bóng đổ ra trên sàn. Đó là tất thảy những viên cuội đẹp nhất mà cô bé Kalang Nga nhặt được trong những lần đi cõng nước ngoài suối trong suốt năm năm.

Pasieng Rêm ngạc nhiên. "Mày muốn gì?". Kalang Nga năn nỉ:

- Cháu nghe nói bác về xuôi, đem vật quý của rừng về đổi gạo, muối, bạc. Cháu muốn nhờ bác đổi những thứ này lấy bạc.

- Những hòn cuội, người Kinh họ không thích, mày cất đi mà chơi. Vả lại mùa này ta không đi buôn, đã có ông bạn người Kinh đây đem saphia, nồi đồng, thanh la, muối lên cho ta rồi.

Hy vọng tiêu tan, Kalang Nga rã rời quỳ phục trên sàn, không đứng dậy nổi. Cô không biết rằng trong tư thế ấy trông cô rất đẹp, tấm zèng ngắn quàng từ ngực xuống đầu gối co lên để lộ đôi chân tròn và bóng mượt như thân chuối non. Nước mắt cô chảy từ cằm xuống vành ngực bầu bĩnh sau đường hoa văn căng tròn trên tấm thổ cẩm. Người lái buôn miền xuôi ngồi bên gùi hàng nhìn cô đăm đăm...
Khi Kalang Nga lượm lại những viên sỏi, buồn bã xuống đến chân cầu thang, một bàn tay giữ bờ vai cô lại.

"Tội nghiệp em. Em đừng sợ, tôi thương em lắm".
Trong bóng tối, trên bàn tay người đàn ông hiện ra một vật lấp lánh sáng. Một chiếc nhẫn màu xanh. "Ngọc đấy".

Lần đầu tiên cô bé thấy một vật quý như vậy. Hai mắt cô không thể rời khỏi ánh xanh huyền ảo của nó. "Em ra gặp tôi ở bờ suối ngoài bìa rừng. Tôi sẽ giúp em".

Kalang Nga đã nghe dân làng nói về saphia và ngọc. Chúng rất quý, chỉ những nhà rất giàu mới có được. Nhưng cô bé cũng hiểu, lời hẹn ngoài rừng có nghĩa là gì. Cô run lên, giọng khàn đi:

- Tôi sợ lắm.

- Đừng sợ. Tôi thương em lắm mà. Từ chiều mai em có thể trả cho Aviet Khết gấp bốn gấp năm lần tiền "văn", còn phải sợ ai nữa.

Kalang Nga vã mồ hôi ra, em không biết luật tục sẽ xử trí như thế nào trong trường hợp này. Em muốn về nhà hỏi mẹ, nhưng không thể được, viên ngọc xanh như có sức thôi miên. Cô bé đờ đẫn bước đến gần, mắt dán vào chiếc nhẫn.

Kalang Nga ra bìa rừng. Người đàn ông chờ cô bên bờ suối. Cô bé sợ hãi và đau rát. Dù xinh đẹp phổng phao, nhưng cô cũng chỉ là một đứa trẻ. Một đứa trẻ đã biến thành đàn bà. Từ nay cô là một dạng trẻ con - đàn bà; đàn bà vì hai lẽ, cô đã biết đàn ông và đã có nữ trang.

Nhưng món nữ trang không dễ bán. Pasieng Rêm lầm lì cầm chiếc nhẫn, soi trước ngọn lửa, rồi bảo:

- Mày ngu quá. Đây không phải ngọc, chỉ là viên ve chai thôi. Tao trả mày ba đồng xu thôi.

Kalang Nga kêu lên thất thanh: "Không, nó là ngọc mà" "Tao đã bảo là ve chai" Pasieng Rêm giận dữ quắc mắt, nắm chặt nó vào bàn tay lão. Kalang Nga cũng không chịu thua, cô bé lăn vào, mắm môi, giật bằng được chiếc nhẫn. Cô quay mình, chạy băng băng xuống cầu thang, đuổi theo người đàn ông miền xuôi.

Ở cuối bản làng, gã miền xuôi đang buộc hai gùi hàng vào hông xe máy, chuẩn bị lên đường. Kalang Nga đâm bổ đến, tóc cô rũ rượi. "Pasieng Rêm bảo tôi, đây là chiếc nhẫn giả". Người đàn ông tức giận:

- Pasieng Rêm nói gian. Cái nhẫn đó quý lắm.

Kalang Nga lắc đầu, nước mắt đầy mặt:

- Tôi chỉ cần ba mươi nén bạc trắng thôi. Ông mua cái nhẫn cho tôi đi.

Gã lái buôn biết, cứ đôi co thế này thì dân trong bản sẽ đổ ra, tai họa sẽ ập xuống đầu cả hai. Bỗng một thoáng, trong óc người đàn ông lóe lên một ý nghĩ táo bạo, hắn ta xốc Kalang Nga lên, đặt ngồi lên xe trước mặt hắn và rồ máy...

Kalang Nga bị bắt cóc khi chưa về nhà chồng. Cha mẹ cô bé chẳng bao giờ có đủ tiền để trả của cho nhà Aviet.


* * *


Manu dừng kể. Trong đêm vắng, Tuấn nghe tiếng sương rơi lộp bộp trên trần xe.

"Rồi họ ra sao? Người Tà Ôi xử sự với họ như thế nào?"

"Luật Tà Ôi với tội bội hôn rất nghiêm khắc. Dù nhà gái có chạy đến góc biển chân trời nào cũng khó mà thoát, nhất định phải đền của cho nhà trai... Có khi còn bị chém giết... Pok ruông là như thế đấy". Cái rùng mình của Manu sát bên Tuấn khiến bất giác anh cũng thấy sởn gai ốc, cảm thấy như uy lực của ngôi nhà mồ Tà Ôi đang ngự trị đâu đây sát bên anh, trong bóng đêm.

"Còn Kalang Nga? Cô ta sau này ra sao?"

"Nhiều chuyện xảy ra với con bé, kể thì dài lắm. Cuối cùng, nó được đưa vào cô nhi viện của các nữ tu dòng Mến Thánh Giá. Sau đó thì được một người Pháp nhận làm con nuôi".

Bên ngoài xe, bóng đêm loãng dần, tiếng sương rơi thưa đi. Những rặng cây xa xa lờ mờ hiện ra trước một quầng sáng đang ửng lên: Mặt trời sắp mọc.
"Kalang Nga lớn lên ở Paris, được học hành tử tế. Nó dần dần quên hẳn quá khứ. Khi mọi chuyện đã vượt quá sức một người, người ta chẳng còn cách nào hơn là quên đi để sống lại một đời khác.

Nhưng rồi sau nhiều năm, Kalang Nga bắt đầu có những thông tin từ nguồn cội của mình. Aviet Khết đã không giết và cũng không đòi nợ cha mẹ nó. Hóa ra ông ta không hoàn toàn khủng khiếp như nó tưởng. Trước chủ làng, ông ta nói họ không có tội".

"Kalang Nga kể với chị như thế sao?"

- Vâng. Theo tôi, ông ấy đã có suy nghĩ vượt hẳn những người cùng thời trong bộ tộc, ông đã phát hiện cái mà bây giờ ta gọi là trách nhiệm cá nhân.
Tuấn gật gù, không nói.

"Từ đó Kalang Nga không hề ngủ được, tâm thức Tà Ôi sống dậy trong nó. Nhiều đêm nó mơ thấy mình bị chủ làng kéo lê trên mặt đất trong lễ rửa nhục. Anh biết đấy, người Tà Ôi không chịu ảnh hưởng đạo Nho như các anh, họ không có những quan niệm về lễ giáo. Với họ điều quan trọng là luật tục. Kalang Nga không thể sống yên khi chưa đền cho Aviet Khết ba mươi nén bạc trắng..."

- Còn chiếc nhẫn? Nó là giả hay thật?

Manu đưa bàn tay ra. "Anh nhìn xem. Nếu quả thực nó chỉ là một hòn thủy tinh, thì có thể nói Kalang Nga là một con ngốc không?"

- Không những ngốc mà là điên! Nhưng dù sao cũng hiểu được, vì đấy chỉ là một cô bé miền núi chất phác, trong một hoàn cảnh rất bức bách.

"Còn anh?" Manu tủm tỉm cười.

Tuấn không hiểu người đàn bà muốn nói gì, anh hơi ngỡ ngàng. Nhưng đúng lúc đó, điện thoại di động trong túi anh rung lên, những hồi rung dài, nối tiếp nhau, dai dẳng và khắc khoải.

Bên ngoài xe, trời đã sáng bạch. Tuấn nhớ sực ra, giờ này chắc Liên đang cuống cuồng đi tìm anh. Đã sáu giờ sáng. Tuấn bứt tóc: "Trời ơi, mình điên, điên thật rồi". Giờ nạp lễ được ấn định là chín giờ. Từ đây về thành phố phải mất bốn giờ, nghĩa là anh đã cầm chắc trễ. Nhưng thôi hãy gắng một lần, nếu chạy xe nhanh, thật nhanh...

Anh không lý giải được vì sao ở ngoài vùng phủ sóng mà điện thoại anh lại bỗng dưng bắt được tín hiệu. Về sau Tuấn mới biết: Thật may mắn, ngày hôm ấy là ngày sóng di động bắt đầu được phủ rộng trên vùng rừng núi phía tây. Đã bốn mươi năm qua từ câu chuyện của Kalang Nga đến câu chuyện của anh, nhưng sức thôi miên của chiếc nhẫn màu xanh thì vẫn không hề khác.


* * *


Liên gần như bật khóc khi vào phút cuối Tuấn lao mình vào nhà, tóc tai phờ phạc vừa đúng lúc họ nhà trai đang tiến vào cổng nhà gái chuẩn bị nạp lễ. Suýt chút nữa thì đám hỏi đã được hoãn lại, nếu cha của chú rể không liều mạng nhất quyết cử hành, với niềm hy vọng ông con trai quý hóa sẽ về vào phút chót.

Mấy hôm sau, Tuấn đi làm. Manu đã rời Huế đi Hà Nội. Người quản lý chuyển cho Tuấn chiếc phong bì và một cái hộp nhỏ. Trên phong bì là tên người gửi: Nghệ sĩ múa Manuelle Hardy, nghệ danh Manu le Cygne. Tuấn nhíu mày: le Cygne trong tiếng Pháp chính là Kalang Nga trong tiếng Tà Ôi, nghĩa là con ngỗng trời (thiên nga).

Trong hộp là chiếc nhẫn màu xanh. Tuấn nhìn kỹ nó, nhưng thật lạ, không có vẻ huyền ảo như lần đầu anh nhìn thấy, hôm nay trông nó trơ trụi và thô thiển hơn nhiều lắm.

Anh mở phong bì, đọc thư:

"Đêm qua tôi đã ngủ được một giấc ngon lành, hơn mười năm nay tôi mới được ngủ như thế. Anh thực sự là một người bạn đường dễ mến, vì vậy tôi rất cảm ơn anh và muốn nhờ anh một việc nữa. Tôi gửi lại anh chiếc nhẫn này. Sau khi sang Pháp tôi vẫn khư khư giữ nó, rồi khi lớn lên, khi đã biết chắc mười mươi chỉ là một hạt ve chai, tôi vẫn không thể vứt đi được. Có lẽ tôi đã trả cho nó một giá quá đắt nên không thể chấp nhận cái ý nghĩ rằng nó là một vật vô giá trị. Anh hãy làm việc đó giùm tôi nhé".

Tuấn cầm chiếc nhẫn lên, đeo vào tay, không thấy nó phát ra ánh xanh lấp lánh nữa. Hóa ra vẻ huyền ảo ma quái ấy có nguồn gốc từ sự tham muốn trong anh, chứ không phải từ chính nó.

Anh về nhà, lúc đi ngang hòn non bộ trong sân, anh dừng lại. Manu không biết rằng anh cũng suýt trả cho nó một giá đắt, vì thế giờ đây cầm nó trên tay anh cũng lưu luyến một cách vô cớ. Nhưng phải nhận lời ủy thác của Manu thôi. Tuấn mỉm cười, thả chiếc nhẫn xuống chân hòn non bộ.

Lắng sâu vào lớp rêu, nó chỉ còn là một viên bi ve lấp lánh vừa đủ để cho lũ cá vàng ngắm nghía mỗi lúc lượn qua.


H Ế T
 

CongVoi

Super V.I.P
Phép lạ
Châu Thổ



Bạn tôi gọi điện, giọng nghiêm trọng: Kiếm gấp giùm một người giúp việc nữ đứng tuổi, có năng khiếu săn sóc người già. Cho ai? Cho ông bà già, ông già bị ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn cuối, đau đớn lắm, bao nhiêu người giúp việc thuê làm chỉ vài tuần là hoặc ông già đuổi, hoặc người ta bỏ việc vì tính khí cáu bẳn của ông già.

Giới thiệu đến người thứ 41 bạn tôi mới ưng ý. Vâng, siêu sao ôsin mà tôi giới thiệu là một người phụ nữ đẫy đà, có đủ các tiêu chuẩn đặt ra. Nàng khoảng 40 xuân xanh, chưa từng lấy chồng.

Một tuần sau khi đưa nàng vào chăm sóc ông già bạn tôi, tôi nhận được điện thoại của bạn gọi đến, giọng vui như chim sáo. Này nhé, tuyệt vời! Cả mấy tháng nay đêm nào ông già cũng đau đớn không ngủ được, các loại thuốc giảm đau gần như không còn tác dụng.

Vậy mà từ khi có nàng, ông già vừa rên lên khe khẽ, lập tức nàng đến đỡ đầu ông già lên, áp sát vào lòng mình, nơi có đôi gò bồng đảo phốp pháp mềm hơn gối lông ngỗng, ấm áp hơn nắng ban mai, lại thêm những tiếng đập thổn thức đều đặn của trái tim tràn nhựa sống, bàn tay nàng mềm mại vừa xoa nhẹ hai bên thái dương ông vừa hỏi giọng du dương:

- Ông ơi, ông nhìn lên bức tranh kia kìa, có đẹp không ông? Con hát ru cho ông dễ ngủ nghe!

- Ừ! Khẽ thôi!

Và thế là nàng hát, hát thật khẽ, thật nhẹ, thật hay. Và ông già ngủ thiếp đi một mạch cho đến sáng.

Này nhé, bấy lâu nay, lúc nào ông cũng gắt gỏng chuyện người ta cứ ép ông ăn ăn uống uống. Cuộc sống đối với ông như vậy là đã quá đủ rồi. Vậy mà nàng cứ bưng chén xúp đến, nhoẻn một nụ cười thật mộc mạc dễ thương với ông, lấy cái khăn ướt lau khắp mặt cho ông, đưa bàn tay mềm mại xoa nhẹ lên khắp bụng ông nói thì thầm:

- Ông ơi, bụng lại xẹp hết cả rồi, cho vào tí xúp ông nhá!

Ông lại nhìn nàng như muốn bật cười vì tính hay dụ dỗ ông của nàng:

- Ừ!

- Tí thôi í mà, con nấu cho ông đấy, ngon lắm!

Và cứ thế, đút cho ông một muỗng, nàng lại nói một câu, vuốt lên bụng ông mấy cái. Ăn xong nàng lại còn nghiêng tai áp sát xuống bụng ông, nói thì thầm:

- Bụng ơi, đủ chưa? Cố mà nghiền kỹ cho ông nha! Cố mà đánh nhau với mấy thằng ma cô cho nó chết hết đi cho ông mau hết bệnh nha!

Thế là ông lại cười, cười to nữa là đằng khác.

Này nhé! Mỗi lần lau rửa chỗ vết mổ, lau rửa cái của quí của ông, bàn tay nàng cứ như diễn viên múa chèo ấy, nâng nhẹ lên, lấy bông gòn nhúng nước ấm, lau cẩn thận như sợ chạm phải kíp mìn nổ, vừa lau vừa nhìn ông cười duyên hỏi:

- Ông ơi, con lau cho ông, ông có thấy dễ chịu không? Lau cho nó sạch sẽ, thoáng mát ông nha!

Ông lại nhìn nàng, ánh nhìn đầy vẻ biết ơn, ánh nhìn tràn ngập niềm vui sướng, thích thú. Trong đáy mắt ông có điều gì đó mới mẻ.

Phải nói, nghe chuyện của nàng, mũi tôi phình to hết cỡ.

Không đầy một tháng sau, bạn tôi lại gọi điện thoại lúc nửa đêm, giọng hốt hoảng, cầu cứu, hỏi địa chỉ và điện thoại liên lạc với nàng. Tôi ngơ ngác: nàng đang chăm sóc ông bà già mà? Không! Bà già đuổi nàng đi cả tuần nay rồi. Tại sao? Bà già ghen! Này nhé, không ghen sao được! Lúc đầu tìm được người chăm ông tuyệt vời thế bà mừng lắm, giao khoán trắng cho nàng chăm ông, bà lên lầu ngủ thẳng giấc.

Sau vài ngày, bà mới để ý thấy ông dạo này là lạ thế nào ấy. Này nhé, lâu lắm rồi không thấy ông cười, vậy mà mấy tuần nay cứ thấy ông cười nói vui vẻ! Này nhé, da dẻ ông cứ như là có sắc hồng ấy! Này nhé, chẳng thấy ông rên la đau đớn vật vã nữa!

Bà giành chén xúp trên tay nàng để ngồi xuống cạnh giường ông, cũng nhẹ nhàng đưa muỗng xúp vào miệng ông. Khó nhọc lắm ông mới há miệng ra, thức ăn chưa kịp đụng lưỡi ông đã nhăn mặt, nhè ra cả gối, mắng bà là cho cả ký muối vô chén xúp hả? Này nhé, tối đến, bà bảo nàng lên gác vào giường bà mà ngủ cho ngon giấc, để bà ngủ trong phòng nàng. Nàng tròn xoe mắt ngạc nhiên thưa cả tuần nay nàng có ngủ trong cái phòng dành riêng cho nàng đâu! Thế mày ngủ ở đâu? Dạ con ngủ luôn bên cạnh ông cho tiện, để ông trở mình là con xoa cho ông ngay. Thế là ba máu sáu cơn, bà đuổi nàng cuốn xéo khỏi nhà ngay lập tức.

Khổ nỗi, suốt một tuần rồi, không có nàng, ông cứ nằm yên, mắt mở trừng trừng nhìn lên trần nhà, thực hiện khẩu hiệu ba không: không nói! không ăn! không ngủ!

Cuộc họp đại gia đình ngay lập tức được tổ chức để biểu quyết áp đảo bà già là phải chiều lòng ông già trong những ngày cuối cùng sống trên cõi đời này. Bà già ấm ức lắm, nhưng đành gọi các con lại để nói rằng mẹ nghĩ kỹ rồi. Thôi thì cứ gọi cái con đó lại đi, để ba con được nhẹ nhàng sung sướng trước khi ra đi!

Tôi đã phải vất vả mới truy tìm lại được nàng. Tôi tất tả, háo hức, đưa nàng trở lại nhà ông bà già bạn tôi. Tôi có cảm giác như mình đang thay Chúa Trời đưa nước thánh diệu kỳ đến ban cho một người đàn ông đang đau đớn vì bệnh tật trong những ngày cuối cùng, bớt đau đớn vật vã.

Nhưng không, muộn rồi, ông già vừa ra đi. Người ta phải vuốt mắt ông mãi ông mới chịu thôi không nhìn trân trân lên trần nhà để tìm kiếm phép lạ nữa.


H Ế T
 

CongVoi

Super V.I.P
Nhà ảo thuật
Mạc Can



Có một cậu bé muốn học vài trò ảo thuật nhưng không tìm đâu ra trường và thầy dạy. Một hôm rỗi rảnh, người cha chở cậu con trai nhỏ xíu, khoảng 10 tuổi, ngồi háo hức sau yên xe Honda.

Vòng quanh đường phố một lúc, đang bình thường thì tự nhiên chiếc xe khục khịch ho khan, dừng lại đầu hẻm như là có hẹn trước, ngay chóc tiệm thuốc tây và cái tủ bán thuốc lá. Nhưng sau cái quầy trong tiệm, và trên chiếc ghế thấp nơi tủ thuốc lá đặt nhờ ngoài hè đường, không có người bán hàng nào.

Còn lạ hơn là mọi người, trong đó có ông cha cố (ông thích đi bộ, thường ngày vẫn đi bộ và bây giờ cũng vậy, đang mỉm cười đếm bước). Cha vẫy tay chào những người khác đang chạy xe quanh đó, dù họ đi hay chạy mà tới “giới hạn” này, tức khoảng đường có tủ thuốc lá thì ai cũng... mờ đi và mất tiêu. Cha cố vẫn nghe người ta nói với ông rằng thỉnh thoảng cha cũng... biến mất, khi đó ông lại mỉm cười đồng ý. Cha có quen với “nhà ảo thuật” và cha cũng thích xem ông diễn.

Chỗ đó ngược sáng hay ánh sáng bị khúc xạ chăng, chưa phải hẳn, một bác xích lô ngồi trong chiếc xe của mình, cách tủ thuốc khá xa, mỉm cười như thông cảm: chính “nhà ảo thuật” đang ở đâu đây, sử dụng những hồi quang, gia công thêm, và làm nhiều người biến mất rồi. Mánh đó cũng nằm trong chương trình biểu diễn quốc tế của một nhà ảo thuật hiện đại, khi anh ta phù phép biến mất tượng nữ thần Tự Do. Tất cả, ông cha cố và mọi người, cười toe, lại hiện ra sau khi qua khỏi con đường.

Cậu nhỏ leo xuống xe, còn người cha thì dẫn xe lên thềm. Hôm nay là ngày chủ nhật, cậu phải ngửa mặt, dùng bàn tay che mắt mới nhìn thấy tháp chuông nhà thờ cao vút tận mây, trên chỗ cao nhất có con gà sắt, nhưng không có một con bồ câu nào - những con bồ câu giờ cứ là trốn trong cái nón cao. Còn tối hôm qua một tay ảo thuật tre trẻ tới diễn trong nhà hàng Tây, người ta đã không cho anh ta diễn trò tung khăn thành chim câu, mà trong thực đơn của nhà hàng cũng bôi bỏ tên món bồ câu ra ràng chiên bơ, tuy nhiên lũ chim bồ câu vẫn trốn trong cái nón.

Chuyện khác nữa: cậu nhỏ trố mắt khâm phục, tuy là thấy đủ các cây căm trong bánh xe sau của chiếc Honda của cha cậu mà khi sờ vào thì căm không còn ở đó. Cậu lại cười, bởi khi những chiếc căm đi vắng, cậu ta thử khẽ sờ vào thì vẫn có chúng ở đó, trong vành xe như cũ: “Nhà ảo thuật khỉ khọn chỉ làm bộ biến nó mất thôi”. Ảo thuật không chỉ làm biến mất mà còn làm hiện ra, bay lên, ít hóa nhiều, lớn thành nhỏ, rất thích.

Một người xem ảo thuật hay là ngàn người xem cũng bị chính con mắt của mình lừa mình nhiều hơn, bởi những khúc xạ, những hồi quang, đèn cực tím của tiết mục màn đen, những ngăn lớp... và sau cùng là tài khéo tay. “Ông ấy có tài làm mất đi nhiều thứ, ông ấy chứ còn ai, ông làm cho chiếc xe Honda ngủ gật, khiến cho nó dụi mắt kèm rèm dừng lại, làm cho con đường vắng hoe nhé”.

Cậu nhỏ sờ vào người cha cậu, nắm bàn tay ông khi ông đang nhìn bác xích lô hỏi thăm đường vào hẻm. Ông ngạc nhiên nhìn xuống và rồi trông thấy đôi mắt nhỏ đen biết nói “Cha không sao, nhà ảo thuật không úm ba la cha mình”. Ông già, “nhà ảo thuật” mà hai cha con đang tìm, còn có thể làm hiện ra nhiều thứ khác. Nhưng chính ông cũng bị lóe đi vì những hồi quang.

Người ta hay hỏi ông một cách thách thức, chẳng hạn: “Nhà ảo thuật, ông biến tờ giấy thành tiền được không?”. Cách hỏi khó chịu như hỏi một nhà luyện kim: “Ông luyện kim, ông nấu cát thành vàng được không nào?”. Nghe nói một thời nào đó, thuật luyện kim đãi cát ra vàng nhưng người ta đã thiêu sống tay thuật sĩ, vì vàng có thể biến thái thành ra thế lực, và từ đó sẽ nảy sinh một nhà nước kiểu ngân hàng độc quyền khác. Nhà ảo thuật thì ít tai hại và cũng ít bị tai nạn hơn nhà luyện kim và văn sĩ, tuy đôi khi ông ta cũng làm cho người ta sợ, nhưng mà ông ta gần giống như một nghệ sĩ thuần túy hơn, ảo thuật hấp dẫn mà lại vô phước vì người ta không sắp cuộc vui gây tò mò này trong vòng bảy con số.

Có gì mà suy nghĩ nhiều, tiền ấy à, hiện ra thì có gì khó nhưng nó lại “có có không không” vì nó là tiền, một vật thể rờ đụng nhưng đầy bất trắc, mà ngày nay người ta gọi là ảo, có đó rồi cũng mất đó. Trong xóm nhà thờ này rất nhiều người nói vậy; vịn vào trường hợp nhà ảo thuật họ nói thêm rằng ông già ấy làm nhiều trò rất hay, một tờ giấy trắng nhé, xếp lại làm tư, bằng khổ của tờ năm trăm ngàn, mở ra thì tờ giấy biến mất, tờ giấy thành tiền, lại còn đâm toạc qua nhiều thứ.

Còn một ví dụ khác, cũng trong vòng câu chuyện tiền mất còn, như trò đánh bài ba lá (bài cào) hay là binh xập xám trong những dịp tết (bài ba tụ 12 lá). Khi biểu diễn những trò cờ bạc này, ông ảo thuật chỉ có một nước thắng không thua. Đây nhé, ông đang cho mọi người thấy trên tay ông có ba lá bài “bù” nhưng chỉ cần lật úp lưng bài xuống, lật ngửa lên nó thành “ba tây” (bồi, đầm, già đủ mặt) mà không phải là ba lá bài cắt dán kỹ xảo nhiều lớp, chỉ có ba lá trước sau.

Ông chuyên nghiệp vậy nên nhiều nhà ảo thuật khác, và có cả các tay cờ bạc bịp ngoại quốc thường biểu diễn trong hộp đêm hay là các casino, vẫn hay tìm tới ngồi im tâm phục khẩu phục, cứng mắt coi ông chơi 72 phép bài lận, nào là điểm kim, mài góc, cho vào tay áo...; coi xong họ nói: “Chưa có nơi nào trên khắp trái đất này có một ông già chơi bài lận kỳ diệu như ông Ali Woong đây”. Cái tên đầy ấn tượng này là nghệ danh của ông, các nhà ảo thuật thích hóa trang thành người khác, tên khác. Đó là thời kỳ hoàng kim của ông Woong.

Cách đây hơn 60 năm, khán giả và báo chí đặt ông cái tên Ngọ Ma, một nhân vật lạ lùng trong giang hồ, vì họ có cột trói ông, bỏ vào bao, ngâm xuống sông... ông vẫn thoát. Ngoài ra ông “có bàn tay rất khéo”, bất kỳ ai (trong đó có ông cha cố) cũng khoái ông bạn già mình biểu diễn ảo thuật (và chính cha cũng học được vài trò). Ai ai cũng nói vậy, nhiều người cũng muốn học vài trò giúp vui trong các buổi tiệc. Trở thành một nhà ảo thuật cũng hay đấy chứ.

Tuy nhiên không hẳn là chuyện vui cho lắm; có nhiều khán giả thở dài lắc đầu: “Tội nghiệp, tổ trác”. Nghề chơi nào cũng vậy, nhiều khi bể mánh. Biểu diễn bài lận coi chắc cú ăn tiền vậy nhưng nó vẫn là “ảo thuật”, khổ thay nhà ảo thuật lại không biết, do vậy mà ông đã tự làm biến mất đi, một cách thiếu cẩn trọng, rất nhiều thứ của mình: nhà cửa, vợ con, bạn bè... Trong đó quan trọng hơn là toàn bộ số tiền lớn mà ông không thể có lại lần thứ hai, bởi người ta ai cũng chỉ có một thời trẻ trên sân khấu ảo thuật, lúc đó là những năm vàng son xa xưa của ông.

Lúc đó chỉ có một mình ông một cõi; là nhà ảo thuật ngôi sao ông đã dành dụm được khá nhiều sau bao nhiêu năm dài. Đâu phải bầu bì thương xót chi cho cam, nhà ảo thuật để biến hóa được nhiều thứ cũng phải suy nghĩ, vắt kiệt tài khéo, đổ mồ hôi thâu đêm trên khắp các sân khấu đại nhạc hội, sòng bạc, hội chợ, hộp đêm, vũ trường, quán cà phê nhạc...

Tiền của ông biến mất, một đi không trở lại trong những sòng bạc, mất hẳn trong những canh bài cào, hốt me, thậm chí bầu cua cá cọp, đổ xí ngầu ngày thường và ngày tết. Ai cũng nói một người có thần có tài, bản lĩnh “ảo thuật” hớp hồn và biết điều khiển người khác như nhà ảo thuật mà khổ thay, chỉ nghe tiếng kêu lóc cóc của con xúc xắc lăn trong cái dĩa ông đã ngây ngất xiêu lòng.

Cờ bạc là bác thằng bần. Giờ thì ông ngồi sau cái tủ nhỏ bán thuốc lá, bệnh tật nghèo khổ. Ông ấy đâu rồi? Người già từng biết thì quên ông, người trẻ thì không biết ông, còn ông có thể... ảo thuật biến ra chính mình lại được không? Ông ấy đâu rồi? Cậu nhỏ nhìn vào tiệm thuốc tây. Hôm nay chủ nhật, một ngày lành dành cho sự nghỉ ngơi, có cảm giác đây là một ngày đầy “phép thuật”, ai cũng vui và không có ai lại bệnh vào ngày này, vì vậy mà người dược sĩ bán thuốc tây rỗi rảnh biến mất (thật ra anh ta ngồi ngủ sau cái quầy - không phải đâu, anh ta mới vừa được “ảo thuật” ra đó chứ).

Cậu bé hiếu kỳ và tò mò của chúng ta nghĩ vậy, và hình như đây là một trong những ý nghĩ có chất ma túy, nó gây nghiện không cưỡng lại nổi. Cũng là do chuyện này hay, hấp dẫn còn hơn tưởng tượng, cậu nhỏ mỉm cười nhìn chiếc ghế mây đan nhỏ, loại ghế mây các em bé ngồi, rách rưới, xiêu vẹo và trống không, sau cái tủ bán thuốc lá kính mờ đục, bên trong chỉ có vài bao không nhãn hiệu hờ hững. Ông ấy mượn chỗ ngồi chơi.

Ngộ nghĩnh quá, hình như đang có một em bé vô hình tinh nghịch, khỉ khọn, đang làm trò giữa khoảng không phía trước lưng ghế, tức ngang ngực một người nào đó, nơi hiện có một điếu thuốc lá vui tính, chỉ lơ lửng vậy thôi. Điếu thuốc đang bay chơi chơi đùa đùa với mấy sợi khói mỏng, thỉnh thoảng nó bay nhỉnh lên, hơi cao hơn một chút, khi đó ở đầu điếu thuốc đỏ lên như có ai đang rít thuốc. Điếu thuốc còn làm bộ “diễn” cùng những điếu thuốc khác, sau cùng cũng chỉ còn có một điếu, và có một tiếng thở dài...

Chút tàn cụt ngủn màu tro trên đầu điếu thuốc, dần dà dài hơn, cong quằn, rơi xuống biến thành chiếc gậy nhỏ. Khói nhiều hơn, ông già đang biểu diễn ảo thuật trên đường phố, mờ mờ sau một ít khói đó, hay chút khói này lẩn quẩn lần hồi vẽ nên chân dung nhà ảo thuật? Ô kìa... sau chiếc tủ thuốc lá, bây giờ đúng là có một ông già thật, ngồi bán thuốc lá vặt vãnh mà lại mặc bộ trang phục sân khấu. Ông Ali Woong danh giá kia mà, trong trang phục cũ rách nhưng tươm tất, đầu đội cái bêrê màu xanh, mình mặc áo len, chân mang dép nhựa và trên tay là bộ bài - lúc nào trên tay ông cũng có bộ bài, nay nó đã quá cũ và tang thương.

Còn một ông già nào khác lại già hơn nhà ảo thuật này. Ông đã 101 tuổi, với đôi đồng tử gần như lòa, ông nheo mắt nhìn cậu bé rồi nói: “Tới rồi, học ảo thuật à? Học gì cũng được, bóng bàn, khăn, bồ câu... tha hồ, nhưng không chơi bài nhé”. Cậu bé cũng khác thường vì cậu ta trông không giống những cậu nhỏ khác, nếu như các cậu đó có ở chung quanh.

Cậu nhỏ này thắt một cái nơ nhiều màu, ông ảo thuật đưa một ngón tay chỉ cái nơ, từ đó một con bướm bay thoát ra và biến thành cái khăn mỏng; cái khăn bay tận tháp chuông, khi nó rơi xuống lại là những quả bong bóng. Ông cha cố đi ngang qua tủ thuốc lá, đứng lại vỗ tay khen ngợi rồi nói với ông già: “Khi nào con cần đổ chuông thì nói”. Nói xong, cha cố thoắt chốc đã ở trên các bậc thang vào nhà nguyện.

Cậu bé đưa tay sờ cái nơ, chỗ con bướm nhỏ bay bay trở về sau khi nó đã lên tới chỗ cao nhất của tháp chuông, nơi có con gà sắt (chính con gà cũng bay trốn trên đó chứ sao). Còn những áng mây thì đang dừng lại ở rất xa con gà. Mây nhìn nhìn xuống con đường vắng, nơi xa kia có cậu bé đang học những trò ảo thuật, và tiếng chuông nhà thờ vui vẻ vang lên. Trên con đường, những lá bài bay phất phới úp ngửa, vui đến nỗi vị thánh giữ chìa khóa cửa vào thiên đàng cũng phải mỉm cười.


H Ế T
 

CongVoi

Super V.I.P
Ngọn Lửa - Lê Minh Khuê

Cô ta xuất hiện ở công ty, trông chả có gì rôm rả. Gầy đét, son phấn xoàng xĩnh. Nghe nói học đại học rất giỏi, thi được vào công ty của tôi xuất sắc, được nhận vào làm ngay. Chỉ chừng đó, ngoài ra là con số không. Kiểu con gái như cô ta có vẻ ít may mắn trên con đường tình duyên. Anh nào thích một người đàn bà chung thuỷ - vì có gì đâu mà chả chung thuỷ - thì chọn cô ta tạm vậy. Mấy đứa con gái ở phòng tôi tán qua loa như vậy. Anh Quý lúc đó cũng có mặt trong phòng nhìn chúng tôi như nhìn mấy mụ đàn bà lắm lời. Anh không nói gì nhưng tôi cảm thấy anh như khổ sở. Tôi không để ý lắm. Cô ấy làm cho chúng tôi cảm thấy bứt rứt, kiểu như một người thì túi đầy còn người kia không có một xu. Nguyễn Thị Duyên. Cái tên đúng như người, luôn ở ngoài lề, ít được ai để ý.
Sáng sáng, công ty tôi như cái chợ thời trang. Quần áo đủ mầu, mỗi sáng mỗi kiểu. Các nàng lòe xoè váy đi dưới sân, liếc liếc vào các phòng phô diễn mọi đường nét. Xong đó mới ngồi sau bàn, sau máy. Vẫn là công ty của nhà nước, lương lậu bảo đảm thành thử các nàng có dư thời gian săn sóc tới tóc, tới mặt, tới móng. Nàng nào cũng sực nức ướt đẫm ở tóc, ở lông mi. Bóng loáng ở móng tay, ở váy. Ðàn bà con gái được như vậy là may mắn. Nhưng Duyên thì khác. Duyên làm hợp đồng. Tới công ty, vào phòng ngay, quấn hai bím tóc dài thành hai lọn. Tôi ngồi sau bàn nhìn ra, thấy Duyên cứng, gầy, eo và mông thấp thoáng ở đâu. Duyên chả để ý gì đến chung quanh. Tôi chợt nghĩ: âu cũng là số phận. Chả bù cho mình. Quanh tôi có tới ba chàng lúc nào cũng đề nghị đi uống cà phê, đi hát, đi nhảy. Chàng nào cũng lém. Có tiền, có duyên. Tôi chờ đợi một lời tỏ tình nhưng chưa ai lên tiếng.
Anh Quý là người họ hàng xa của tôi, là trưởng phòng. Ðối với anh, tôi là trẻ con. Nghĩa là thỉnh thoảng anh cho tôi bánh xà phòng thơm, quả hồng, cái cặp tóc lạ kiểu. Và trong phòng có gì khó lại bảo: làm giúp anh, anh đỡ phân công lằng nhằng. Chị Nghiên vợ anh đẹp như người mẫu, đôi môi khao khát, luôn nhoẻn cười. Không ai không ngoái đầu nhìn chị. Chị kiếm tiền khá, biết lái xe hơi, biết nhảy, nói tiếng Anh như gió. Chị là kiểu mẫu của người phụ nữ mới. Hai người ấy lấy nhau hai năm, chưa con cái. Từ ngày lấy vợ, anh Quý lầm lì, đi qua sân công ty cứ hai tay đút túi quần, ai hỏi mới gật còn toàn đếm bước. Tôi nghĩ có lẽ lấy vợ rồi người ta phải nghiêm chỉnh như vậy. Tối đến nhà anh chơi vào ngày nghỉ. Lúc thì anh ở nhà. Lúc thì có mình chị. Lúc có hai người thì một đọc sách, một tưới cây,hoặc chị thì xem ti vi còn anh tha thẩn ở ban công. Có lần tôi hỏi: hai anh chị không đi chơi với nhau ngoài đường bao giờ à? Anh bảo: không. Chị thì bảo: hồi đầu thì có, bây giờ thì thôi, đi một mình khỏe người. Nhìn thấy hai người sống với nhau, tôi lại sờ sợ phải lấy chồng. Nhỡ có hôm nào đó thức dậy nhìn thấy nhau mà không biết nói câu gì... Thà chết già còn hơn...
Anh Quý bảo: xếp chỗ gần cửa sổ cho Duyên ngồi. Việc của cô ấy cần ánh sáng. Tôi hơi ngạc nhiên, xưa nay, trừ tôi ra, anh xưng hô nhất loạt với chị em trong phòng: chị và tôi. Có vẻ giữ kẽ. Lại khá lãnh đạm. Anh là trưởng phòng thành thử bọn con gái để anh yên không trêu trọc. Nhưng chúng nó nói với tôi: anh mày như lô cốt. Tinh tướng.
Sau rồi tôi phải để ý đến anh Quý. Trông dạo này cứ bần thần. Già hẳn đi. Công việc nhiều, nhưng cũng có ngày được nghỉ. Công ty hay cho nhân viên đi chơi vài ngày lên Tam Ðảo, hay đi Ðồng Mô. Trước khi lấy chị Nghiên, anh Quý hay đi chơi với chúng tôi. Nói suốt dọc đường, có khi nói bậy bạ, không ai nhịn cười được. Khi lấy vợ rồi, anh cũng hay đi chơi với chúng tôi, không có chị Nghiên, và anh cũng không hay cười, không nói bậy bạ như trước. Duyên về phòng, anh hỏi chúng tôi: Sao dạo này không đi dã ngoại nhỉ? Tổ chức để nhân viên mới tham gia với chứ! Anh nói rôì nhìn Duyên. Rất nhanh, Duyên quay lại nhìn anh Quý. Một cái nhìn là lạ, như giữa ta và ấy, không còn gì phải bí mật nữa. Và lần đầu tiên, tôi chú ý đến khuôn mặt Duyên. Như có một ngọn lửa được đốt từ bên trong, khuôn mặt tầm thường ấy sáng bừng lên, không những ưa nhìn lắm lắm, mà còn đẹp nữa. Tim tôi như thắt lại. Thôi chết rôi, anh tôi, chị Nghiên và Duyên. Chuyện này cũng như vô khối chuyện tình tay nọ tay kia vẫn xảy ra, có gì khác đâu, nhưng tôi vẫn không tin được.
Không thể tin được vì anh Quý đẹp trai - anh cao mét bảy mươi lăm, hai bằng đại học khoa học, anh khoác cái áo xoàng xĩnh mấy vào trông cũng tươm tất như đi vũ hội. Chị Nghiên thì lúc nào cũng thế, đôi môi đỏ hồng, khát khao tình ái. Còn Duyên thì e ấp ở đâu ấy. Hai người tìm thấy nhau như thế nào? Tôi ngồi nát óc suy nghĩ và thề rằng tôi không bao giờ nên có cái lối ngoái đầu nhìn một cách chết người như Duyên. Cái lối nhìn ấy nó chết người thật, vì phải sao đó mới có thể đẹp lên khi nhìn người đàn ông như thế.
Tôi vẫn quan sát anh Quý và Duyên. Lại không có gì nhiều nhặn nữa. Duyên vẫn xoàng xĩnh, không ai bàn tán đến. Còn anh Quý thì già thêm, anh cứ bần thần ngồi sau bàn. Ðôi khi cứ mong có tiếng ai gọi ở ngoài là nhả tót ra ngay đi như chạy.
Tôi nhìn hai người một cách bất chợt. Một buổi sáng chủ nhật, tôi đạp xe đi sớm. Xa xa trông thấy một đôi trai gái đèo nhau bằng xe máy đi chầm châm. Người con trai nghiêng tai xuống nghe. Cô gái dựa cằm vào vai người con trai, nói cái gì đó. Một t ay người con trai lái xe, một tay cầm tay cô gái để lên đùi mình. Xe vẫn đi chầm chậm giữa dòng xe máy buổi sáng đang ngược xuôi trên đường, dường như thế giới là của riêng hai người. Mùa này, buổi sáng sương mù lãng đãng che mờ những ngôi nhà cao tầng. Những hàng cây bên đường bồng bềnh hiện ra trong sương. Tôi không đạp phanh được nữa khi nhận ra đôi thanh niên kia là anh Quý và Duyên. Lại cũng là lần đầu tiên tôi chú ý tới lọn tóc cao trên gáy Duyên. Tóc búi cao hiện ra cái cổ thẳng, trắng ngà, dễ thương như cổ trẻ con. Những sợi tóc loà xoà trên cái cổ trinh bạch, nhìn mà xao xuyến. Anh Quý tôi có lẽ nhìn thấy sự trinh bạch từ người con gái mà không ai cho là đẹp. Dù là như vậy tôi vẫn không thể nào hiểu được người ta yêu nhau vì cái gì?
Tôi tức giận đạp xe lướt qua. Hai người vẫn không nhận ra tôi. Ðã bảo thế giới ấy là của riêng hai họ mà .
Một tháng sau, Duyên đi khỏi công ty của tôi. Không ai biết chuyện gì nhưng anh Quý thì hốc hác hẳn đi. Anh lầm lầm, lì lì, ngồi đâu trong cứ như đụn rạ. Ông giám đốc công ty phải lên tiến cảnh báo công việc trong phòng tôi chậm như rùa. Cứ như thế vài tuần. Tôi thấy anh Quý đấu tranh với mình chật vật để đứng vững, rồi anh cũng lấy lại được thăng bằng nhưng trông vẫn mất mát lắm.
Hôm công ty tổ chức đi chơi cuối năm, tôi ngồi cạnh anh trên xe ô tô. Lúc này tôi mới gợi chuyện. Anh biết chị Duyên đi đâu không?
- Chuyển công tác đi sang bên kia với chồng chưa cưới rồi.
- Xấu thế cũng lấy được chồng à?
Anh Quý quay mặt đi và ngán ngẩm không thèm nói gì. Anh chờ tôi nghiêm túc lại rồi bảo :
- Ở công ty này chẳng cô nào được như cô ấy.
- Anh lại bảo anh chưa yêu ai như yêu cô ấy chứ gì? - Tôi dài giọng trêu anh. Anh Quý im lặng nhìn ra cửa xe. Tôi cũng không biết nói gì với anh nữa. Không biết tôi đã học câu này ở đâu: khi yêu, chỉ có riêng người đang yêu biết phải làm gì.
Sau đấy rất lâu, tôi không thấy anh nói gì đến Duyên. Nhưng anh vẫn thường ngồi lại ở sau cái bàn Duyên đã ngồi, nhìn ra cửa sổ. Mùa này mưa không ra mưa, nắng không ra nắng. Nên mỗi khi nhìn cái kiểu anh ngồi như vậy, tôi lại rủ: Ði ra ngoài này với em một tí, anh Quý ơi.
_________________
Quy Ẩn Luyện Kiếm
 

CongVoi

Super V.I.P
KỲ NGHỈ HÈ Ở VENICE
"Một tâm hồn không hoàn hảo, hay nghỉ đến những tình yêu không hoàn hảo, và lựa chọn những kết cục không hoàn hảo".

Tôi viết câu chuyện này khi một mùa dài đã qua và Venice dường như chỉ còn ở lại trong kí ức . Người ta không thể xoá đi hình ảnh của bất kì ai trong kí ức; cái gọi là "quên" có lẽ là sự chấp nhận với nụ cười dịu dàng hoặc chua chát . Tôi đang rất nhớ em và tôi cầm bút lên ... Em trở về thật gần, Venice cũng trở về thật gần ...
Năm đó chúng tôi là hai sinh viên của trường Mỹ Thuật sau khi tốt nghiệp được đi thực tập ở Italia . Và chúng tôi chọn Venice làm nơi hoàn thành tác phẩm cho khoá học . Đêm cuối cùng ở Firenze, tôi và em ngồi thật lâu bên cốc cappucino nghi ngút khói:
_ Tại sao em chọn Venice hả Cá Khô ?
_ Vì em chưa biết yêu! Venice sẽ giúp em ... Còn anh ?
_ Anh thì ngược lại . Vì anh yêu rồi!
Cười .

Chúng tôi là anh em họ . Một quan hệ gia phả lằng nhằng mà người ta vẫn gọi đùa là "họ hàng đại bác bắn ba đời không tới". Thế nào nhỉ ? Ba em là anh ruột cô Phương, cô Phương đám cưới với chú Danh vốn là em trai của mẹ tôi . Vậy đấy chúng tôi trở thành anh em . Chúng tôi cùng tuổi, lớn lên cùng nhau, học cùng trường và mơ ước như nhau . Đã có lần tôi và em tự hỏi "không biết từ khi bé đến giờ, đã có gì chúng tôi không gắn chữ "cùng" vào hay chưa ?" Thế giới của em có những gam màu nóng ấm, chủ nghĩa siêu hiện thực của Van Gogh, khúc mùa xuân của Vivaldi, sữa đậu nành và kẹo lạc 2000 đồng một gói to đùng . Thế giới của tôi đa số lại là gam màu lạnh, cảm giác cô quạnh trong tranh của Dali, nhạc Trịnh không tình ca ... và em . Thầy giáo của chúng tôi rất ít khen, nhưng khi đã khen thì thường dùng những lời xa xỉ . Có lần thầy bảo :"Xem tranh của hai đứa xong, mới cảm thấy đủ hai mặt của một tâm hồn". Chúng tôi sướng râm ran . Mỗi lần như thế lại tự thưởng cho mình bằng một buổi ngồi thật lâu trong quán nước trước trường và ... bóc vé số . Chúng tôi chẳng trúng được bao lần, mà cũng may là thầy chẳng mấy khi khen .

Tam Nguyên . Lần đầu tiên tôi nhớ ra em có cái tên ấy là khi chúng tôi vào lớp 1 . Cô giáo gọi :"Nguyễn Tam Nguyên". Cả lớp im lặng . "Nguyễn Tam Nguyên". Cô giáo lập lại . Em ngồi bên cạnh thì thầm :"Hình như cô gọi em anh ạ!"-"Phải là Cá Khô chứ, Nguyên nào ?". Đến khi cô giáo gọi tên hết cả lớp, em mới đưa tay hỏi :"Thưa cô, cô chưa gọi con ạ! Tên con là Cá Khô". Đến tận bây giờ em vẫn luôn yêu thích cái tên ấy . Nó là một phần tuổi thơ trong em, trong tôi . Tôi biết chỉ mỗi tôi gọi em bằng cái tên ấy, chỉ mỗi tôi và em biết cái tên ấy có ý nghĩa thế nào, chỉ mỗi tôi và em biết nó quý giá biết bao nhiêu ...
_ Em ngoan, đừng ốm nữa nhé! Phải ăn nhiều vào! Mẹ anh bảo ai không ăn nhiều sẽ như con cá khô thôi .
_ Thế cá khô xấu lắm hả anh ?
_ Anh chả biết nhưng mà mẹ bảo hôi lắm!! Em mà ốm nhiều thì sẽ ... hôi như cá khô đấy ...

Chúng tôi thuê được một căn phòng áp mái khá rộng rãi đủ kê hai cái giường và ngăn với nhau bằng một bệ gỗ sơn trắng, một góc bếp nhỏ với phòng tắm rất xinh . Thoạt đầu chúng tôi rất phân vân không biết đặt giá vẽ ở đâu . Thế là ý tưởng trải chăn ra đời, như thế có thể quấn lại một góc, tha hồ giăng vật dụng ra nhà . Cũng may lúc chúng tôi đến Venice, trời đã vào mùa xuân ấm áp . Bên dưới tầng trệt là quán cà phê của vợ chồng ông bà chủ . Họ là người Pháp, nói được cả tiếng Anh và Ý . Những khi rỗi việc tôi và em thường xuống phụ giúp làm những việc lặt vặt . Đây là một quán cà phê nhỏ, trang trí mộc mạc và không âm nhạc . Những chiều nắng, khách ngồi đầy trên các "tavolini", họ nói cười, tán gẫu, tiếng bước chân gõ nhịp trên nền đường lát gạch, tiếng guitar của bác Luciano già ... tất cả tạo nên một nét ồn ào rất Venice . Vợ chồng ông bà chủ khá thân thiện . Họ kể cho chúng tôi nghe về quê hương họ, về miền Nam nước Pháp lúc nào cũng tràn ngập nắng, về những cánh đồng cỏ mùa xuân xanh mướt, mùa hè vàng rực rỡ, được cuốn lại thành những lô tròn khổng lồ, đều đặn, nhìn xa như những ổ bánh cuộn phết mật . Tôi hỏi họ "tại sao lại sống ở Venice nhỏ bé mưa rất buồn và nắng thì hiếm hoi ?" Họ nhìn nhau và mỉm cười :"Vì ở đây khiến chúng tôi yêu nhau hơn".
Em vẫn thường hay nói chuyện với bác Luciano bằng vốn tiếng Ý cỏn con của mình . Ông già tóc dài như nghệ sĩ, trắng muốt, đến ngồi bên hông quán cà phê mỗi tuần 3 lần . Ông độc thân, khắc khổ, lúc nào cũng bát đầu chương trình bằng bản Serenade và kết thúc bằng âm điệu rộn rã của Moliendo Café . Tôi rất thích nhìn em và bác Luciano nói chuyện . Cuộc đối thoại giữa họ luôn luôn bắt đầu bằng những câu tiếng Ý ngắn gọn và suôn sẻ, tiếp đó ông già nói gì đó thật dài, em cười ngơ ngác . Ông ấy hỏi :"Comprendi ?"-"No, non comprendo" ... Và thế là đoạn hội thoại tay chân bắt đầu . Có một điều đặc biệt là cả hai đều kiên nhẫn một cách kì lạ . Họ có thể hiểu nhau như thế!
_ Anh hay nhìn trộm em lắm à ?
_ Ai bảo em thế ?
_ Bác Luciano bảo anh cứ hay nhìn em cái kiểu ... không giống anh trai của em chút nào - Em cười, mắt hay háy .
_ Anh có nhìn trộm em đâu . Anh ngắm em đấy chứ!
Cười .
Cá Khô của tôi hiền lắm . Những cuộc tranh luận của chúng tôi thưởng kết thúc bằng nụ cười của em . Em cười, có nghĩa là tôi đúng . Đơn giản như thế . Những người ở đây gọi em là "Angelica", họ bảo em có nụ cười của một thiên thần . Mà đối với người Ý, gọi ai đó là "Angelica" thì có nghĩa là người ấy vô cùng được yêu quý . Tôi cảm thấy cực kì tự hào về em, thậm chí ngay cả khi người ta vỗ vai tôi và bảo :"Cậu có cô em họ thật tuyệt!"

Chúng tôi bắt đầu thời kì gấp rút chuẩn bị cho tác phẩm báo cáo . Nhưng công việc không đơn giản theo những tiến trình nhất định . Cảm hứng, đó là những gì vừa dễ tìm mà cũng vừa kho tìm nhất . Màu vẽ và cọ không phải lúc nào cũng ngoan ngoãn dưới đôi bàn tay .
_ Em bế tắc anh ạ! Venice lãng mạn và đẹp thế, nhưng hình như có ở tất cả trong tranh rồi .
Em đứng hàng giờ trong bảo tàng để ngắm tranh của Canizzo, của Carpaccio, của Jean Luc ... ngồi thẫn thờ nghe bác Luciano chơi khúc Lullaby ... Và tôi thẫn thờ, ngắm em trong im lặng . Có đôi khi nghĩ lại, tôi ghét cái tình yêu kiểu nghệ sĩ của mình, có lẽ nó không hợp thời một chút nào, nó ảo tưởng và trên mây quá chăng ? Nhưng lúc đó, ít ra trong tâm trí tôi em cũng là nghệ sĩ, tôi đã ước em thấu hiểu sự quan tâm đó theo cách của riêng tôi . Nhưng Venice khiến con người ta yêu theo những cách không hoàn toàn giống nhau, ngay cả khi ... chúng tôi cùng có một tâm hồn nghệ sĩ . Mà chúng tôi là anh em họ cơ mà nhỉ ? - Cười .
_ Em gặp anh ấy ở bảo tàng anh ạ! Anh ấy bảo anh ấy thích em cười . Em ... sẽ nhớ anh ấy mất thôi .
_ Anh ta tốt chứ ?
_ Có vẻ là thế!
Venice đã dạy cho em điều em muốn .
Đó là cảm giác yêu một người . Và Venice cũng đã dạy cho tôi cảm giác mất mát rất xa xôi . Tôi đã bào giờ có em, để có cảm giác em vụt bay ra xa đâu nhỉ ? Từ giây phút đó, tôi đã biết thế nào là đi xe đạp ở Torcello không em, thế nào là ăn bữa tối không em, thế nào là tâm trạng ngồi nghe bác Luciano chơi nhạc một mình . Nhạt nhẽo . Thật sự nhạt nhẽo!
_ Anh nghĩ là anh ấy có cảm giác như em chứ ?
_ Anh không biết . Em thử hỏi thẳng anh ta xem .
_ Không đâu - Má em đỏ bừng .
_ Em ... yêu anh ta thật chứ ?
Cười .
Chưa bao giờ tôi không mong chờ nụ cười này của em đến thế! Em cười, có nghĩa là tôi đúng ...
_ Hôm nay bọn em đến Ponticello dei Sighs anh ạ! Anh ấy bảo ở đây nên nói những điều hạnh phúc . Anh ấy đang mong chờ một điều hạnh phúc để thẻ xuống cầu ngày hôm nay . Anh ấy nhờ em giúp ... - Em hào hứng kể . Tôi thấy những tia cười nhảy múa trong mắt em .
_ Rồi sao ? Anh ta đã hỏi em chứ ?
_ Vâng ạ! - Em níu tay tôi - Anh ơi, em đã là của một người ...
Nếu ai đó có thể hiểu ... nếu mây, gió, khoảng trời kia, và Venice có thể hiểu ...

Trái Đất vẫn quay, và chúng tôi vẫn là anh em họ . Venice vẫn đẹp, và chúng tôi vẫn là anh em họ . Con đường dài bất tận, và cho đến cuối con đường, chúng tôi vẫn là anh em họ .
...
_ Anh ước giá như chúng ta là người Trung Quốc .
Em tròn xoe mắt .
_ Khi em buồn, anh ta giúp em vui hơn chứ, Cá Khô ?
Anh ấy ôm em vào lòng và bảo đừng buồn vì em có anh ấy mà . Nhưng tại sao lại là người Trung Quốc hả anh ?
_ Anh ấy giúp em có cảm hứng cho bài tốt nghiệp đấy ah ?
_ Vâng ạ, anh ấy khiến em biết tình yêu ở Venice . Tại sao lại là người Trung Quốc ? - em nhíu mày .
_ Anh ta biết em thích được mua xoài dầm khi em ốm chứ ?
_ Biết ạ, nhưng em hết thích rồi, anh ấy bảo không tốt khi ốm . Anh vẫn chưa trả lời mà . Tại sao lại là người Trung Quốc ?
Tôi trầm ngâm ...
_ Người Trung Quốc, anh em họ được phép yêu nhau ...
Em nhìn tôi không chớp mắt ... Đôi mắt ấy long lanh lắm, hàng mi ấy dường như sắp cụp xuống, khiến thằng đàn ông trong tôi, thậm chí là một thằngnghệ sĩ không thực tế chuẩn bị quay cuồng ...
_ Anh đùa - Tôi cười vang ... nhưng có cảm giác đó giống một tiếng nấc dài hơn ... - Anh ta đúng là của em đấy . Nếu mà em không giữ cho tốt, thì anh sẽ đánh đòn em .
_ Anh thật là ... - Em lại cười, em cười hạnh phúc .
_ Có những người yêu em thế kia mà, phải không em ?

Venice dạy cho con người ta biết yêu, biết yêu nhau hơn, và biết yêu nhau mãi bằng nhiều cách khác nhau ...
Chấm . À không . Chấm cảm chứ nhỉ!
_________________
 

CongVoi

Super V.I.P
Tìm vợ
Tuệ Hải



Ba mẹ mất cũng hơn 5 năm, bây giờ ở nhà chỉ còn hai chị em. Chị Hai đã lấy chồng và có một cháu gái 4 tuổi.

Thân làm giáo viên, giảng dạy môn địa, ngoài mười sáu tiết trên lớp, thời gian còn lại trừ những lúc soạn bài, chấm bài ra, Thân chưa nghĩ ra cách dùng nó vào việc gì cho có lợi nhất. Đang dợm đi chơi với bạn, vừa ra khỏi cửa, Thân đã nghe tiếng chị Hai:

- Chiếc áo chị mới ủi sao không mặc? Ngoài bốn mươi mà còn chưa lấy vợ! Thầy giáo gì mà tóc tai dài thượt!

Tính chị vốn thế, việc quan trọng không phải là chiếc áo nhăn, mái tóc quá lứa hay phòng ngủ thiếu ngăn nắp mà là chuyện vợ con. Từ một lẽ khác, nên chuyện quần áo tóc tai, đồ đạc trong phòng; tất cả chị đều có thể gắn liền với bàn tay phụ nữ. Ba má mất sớm, hiện giờ chỉ còn hai chị em, lúc trước chưa có gia đình, ngoài vai trò làm chị dường như ở chị còn mang sự lo toan của người mẹ. Khi có chồng, gánh nặng trách nhiệm đối với gia đình riêng nên chị không còn có thời gian nghĩ đến em.

Có đôi lúc Thân nghĩ chắc chị Hai tưởng lấy vợ thì lập tức ngày mai tóc sẽ gọn gàng, quần áo sẽ thẳng tắp và phòng ốc tự nhiên sẽ ngăn nắp. Cứ nhìn gia đình chị thì khắc rõ: con cái lễ phép, quần áo tươm tất; chồng chị lịch sự sang trọng; nhà cửa sạch sẽ, gọn gàng. Hàng xóm trông vào cuộc sống gia đình hạnh phúc của chị, ai cũng thèm thuồng. Đặc biệt không mấy khi thấy chị bàn đến chuyện tình cảm, chuyện tình yêu! Ôi tình yêu! Chị Hai lấy chồng không bắt đầu từ tình yêu. Qua mai mối, cảm thấy hợp là tổ chức đám cưới. Nếu cuộc sống vợ chồng chỉ có bấy nhiêu thì nhiều lúc Thân định nói với chị “em đang tìm ô-sin”.

Mỗi lần về nhà Thân hay nựng cháu Bo con chị Hai, con bé bụ bẫm dễ thương, đôi mắt đen láy, cá tính nhanh nhẹn hễ gặp là muốn ngồi xe đòi cậu chở một vòng rồi mới cho cậu hôn, lần nào cũng vậy, không được là nó mè nheo. Chỉ cần nựng cháu là Thân cảm thấy bao mệt nhọc sau những giờ lên lớp như biến đi đâu mất. Hễ thấy cậu cháu đi chơi là chị Hai lại nói trỏng: “Sao, chị sắp có em dâu chưa?”, chẳng biết có nghe hay không chỉ thấy Thân gật đầu, miệng ừ hử rồi lại lảng sang chuyện khác. Chẳng lẽ lại kể: “Ở trường em cũng còn nhiều bạn lớn tuổi hơn vẫn chưa vợ!”. Như thầy Hoàn dạy môn sử, năm nay đã bốn mươi ba cũng đang kiếm người nâng khăn sửa túi. Thầy Đoàn dạy thể dục năm nay ba mươi tám vẫn đang chờ... vợ. Một lần có ai hỏi thầy Hoàn để dành tiền đủ chưa, sao không ưng đại cô nào, kẻo cha già con cọc? Thầy nói ngay: “Tiền thì bao la, nhưng chưa lấy vợ được!”, thầy ghé sát tai người bạn nói câu gì đó, rồi bỗng dưng ai cũng thấy hai người cùng cười to. Thân kém Hoàn một tuổi, nhưng khi trò chuyện đều gọi nhau bằng mày tao.

Thân còn lạ gì câu nói nhỏ “đái còn ướt dép nói gì lấy vợ” của Hoàn, nghĩ đến đó Thân tự cười một mình mà chẳng ai biết Thân cười điều gì? Thân dạy môn địa, học sinh thường gọi là thầy địa, thỉnh thoảng khi các em nói chuyện với nhau có lúc gọi ông địa, nhưng mấy khi nó nói trước mặt thầy, dễ thường có nghe được chắc cũng vui! Chính số lượng giáo viên độc thân nam đếm trên đầu ngón tay nên ở trường các thầy dễ bị gán ghép với cô này cô kia. Chẳng hạn như ghép Thân-Thu, cô dạy môn giáo dục công dân, học sinh nói trại ra là giáo dục “cô dâu”.

***

Đang nằm dựa trên ghế hớt tóc chờ cạo mặt, Thân nghe cô thợ hỏi “anh thích nghe bài gì?”. Hớt tóc buổi trưa trong tiệm máy lạnh lại được nghe nhạc dễ làm cho người ta đi vào giấc ngủ. Thân định chọn bài Một cõi đi về hay Đâu phải bởi mùa thu nhưng lại nói “tùy em muốn cho anh nghe bài gì cũng được”. Lời hát của những bài nhạc ở đây phần lớn nó chia sẻ nỗi cô đơn, nó diễn tả đủ tâm trạng của các cô gái xa quê. Cô thợ vừa cạo mặt vừa nhoài người qua ngực Thân, bàn tay mát mẻ mềm mại vuốt căng da mặt, tay kia nhẹ nhàng lượn lưỡi dao. Thân ngửi được mùi kem thoa mặt, nhìn bộ ngực ẩn dưới làn cổ áo khoét hơi sâu nhấp nhô theo động tác cuối xuống, chỉ cần nhổm người lên một chút là môi đã chạm vào má. Khi hôn vào tình huống bất ngờ, lời đáp có thể nhận được một trong hai thái độ: giận dỗi hoặc đồng tình, khả năng thứ nhất xác suất rất cao.

Nụ hôn phải mang thông điệp của tình yêu; phải có cái gì thương thương, nhớ nhớ thì chất ngọt ngào mới làm tăng ý nghĩa nụ hôn. Sợ sự tưởng tượng của mình đi quá xa, Thân nhắm mắt lại, trong trí hiện ra hình ảnh Thu, cô bạn đồng nghiệp dạy giáo dục công dân ra trường được hơn ba năm. Thu hai mươi bảy tuổi, khá đẹp, nước da trắng, nói năng hoạt bát, dáng người cao hơn Thân một chút. Khi đã yêu, lúc vắng là nhớ lắm, có những hôm không có tiết dạy Thân cũng vào trường cốt chỉ để nhìn Thu và ra về sau vài câu hỏi bâng quơ. Không hiểu hôm nay Thân trò chuyện với cô thợ cắt tóc hơi nhiều là để tự trách mình hay là giận Thu?

Nhớ lại tình cảnh đi ăn kem lần trước, Thu cúi xuống hai tay nâng ly kem, gò má nghiêng nghiêng hây hây mọng đỏ, hy vọng sẽ đặt lên má em nụ hôn ngọt ngào. Ánh mắt em lim dim như sẵn sàng đón nhận nụ hôn đầu đời, trớ trêu thay hạt bụi nào chui vào mắt làm em chớp chớp, vừa khi Thân sắp được toại nguyện với nụ hôn thì Thu đưa tay lên dụi dụi mắt sau làn kính cận, cùng lúc khuỷu tay em thúc vào ngực Thân! Chẳng biết cái hạt bụi bay vào mắt Thu có thực hay không, nhưng cái cảm giác nhoi nhói đau ở vùng ngực Thân chắc không phải là ảo. Ở nhà lúc hôn bé Bo con chị Hai, Thân còn muốn cắn nó một cái vì nó dễ yêu làm sao! Còn sự chờ đợi được hôn Thu bằng tình yêu trai gái nồng nàn là cả một chương trình mà Thân đã lập từ lâu, xem như kịch bản ăn kem đã bị phá sản. Khác với lần trước, lần này Thu chủ động mời Thân lên phố đi dạo bộ. Thân đã sắm đôi giày gót cao model mới, khác với đôi giày thể dục quen với đôi chân đi bộ, lần này phải cao cao mạnh mẽ thể hiện tính cách đàn ông.

Còn Thu thì sao? Không lẽ dặn em đi đôi giày gót thấp để vừa tầm với mình, biết thế nào? Duyên con gái gắn liền với thời trang, cứ trông vào các cô người mẫu thì rõ, người cao cao, mình hạc sương mai, dáng đi uốn lượn nhấp nhô, bước chân nhún nhảy trên đôi giày cao từ sáu phân trở lên phải công nhận là đẹp. Thu đẹp, Thu cao, trang phục phải thích hợp với kiểu người mới tôn lên vẻ đẹp của em. Yêu nhau, người ta cố làm cho vừa lòng nhau, riêng cái khoản sửa soạn cho đôi hia cũng đã chiếm mất nhiều thì giờ, chẳng nhẽ mình thấp mà bắt Thu phải theo mình, mới nghĩ đến đó Thân cứ trù trừ nửa muốn đi, nửa lại thôi. Hẹn đến nhà chở Thu đi, lần hẹn này Thân chẳng mấy hứng thú gì, so với lần trước, nó giả giả, gượng gượng làm sao! Cứ nhớ đi ăn kem mà Thân thấy quê quê, tức tức, may mà Thu vẫn vui vẻ. Ai có tật người đó giật mình, có phải Thân đang giật mình khi nghĩ đến chuyện cũ? Thu càng vô tư bao nhiêu thì Thân càng thấy mình xấu xấu bấy nhiêu, hôn người mình yêu đâu có gì phải lén lút. Phải chi Thu là cô thợ cắt tóc thì chuyện không đến nỗi nặng nề lắm, cùng quá lần sau Thân sẽ không đến, Thu dạy chung trường vào là gặp, ra là thấy bảo sao không ngượng không quê, chỉ cần hé ra một tí là cô giáo đỏ mặt.

Cuối cùng Thân cũng đến nhà chở Thu đi phố, gặp hôm mất điện không khí nóng bức Thân phe phẩy chiếc quạt thế nào làm tuột chiếc cúc áo ngực. Không lẽ để thế mà đi chơi, đâu có áo sẵn để thay, đành để em đứng khâu trực tiếp chiếc cúc trên áo. Càng vội càng lúng túng, tay Thu mất tự nhiên, muốn cho nhanh Thu dúi đầu vào ngực Thân ghé răng cắn sợi chỉ. Hơi ấm luồn lên đầu, Thân cúi xuống hôn lên trán em thì chiếc kẹp tăm nằm im trong tóc bí mật chui ra chọc ngay vào mũi đau điếng! Khi cô thợ hỏi “anh ngủ hay nghe nhạc”, lúc này Thân biết mình đã làm một giấc ngủ trưa say sưa trên chiếc ghế cắt tóc.

***

Đàn ông tuổi hườm hườm, tình yêu thì ít mà lo toan lại nhiều; vợ quá trẻ nhiều nhõng nhẽo, ít kinh nghiệm; chồng thấp vợ cao biết trong đời có mấy lần đi bộ song đôi. Lại thêm chị Hai lại kém mẹ Thu vỏn vẹn sáu tuổi, xưng hô thế nào đây? Cứ nhớ đến hai lần trước: một lần đau ngực, một lần đau mũi, Thân cảm thấy lo lo cho tình yêu mới chớm của mình. Quá tam ba bận, Thân định lần này mời Thu đi hát karaoke rồi nói thẳng ra chứ không chịu cái cảnh ỡm ờ khó chịu, còn chị Hai lần nào cũng khen: “Con nhỏ đó lễ phép, vén khéo, thích bé Bo lắm”. Thân chứ đâu phải bé Bo!

Thời kỳ nào cũng vậy, tình cảm trai gái bao giờ cũng lâm ly nhất, đẹp nhất và nhiều nước mắt nhất. Trên màn hình tivi, người con gái ngước lên nhắm mắt lại, hai tay quàng qua cổ người con trai, gã con trai xoay người cúi xuống hai tay vòng qua lưng đứa con gái và môi chạm môi... Xem đi xem lại trên màn hình cảnh hai ngươi hôn nhau, chợt nhớ tới Thu người Thân như tê đi, không biết đã đến mức độ yêu chưa sao cứ nhớ nhớ, lo lo. Không biết giờ này Thu đang làm gì, đang nghĩ đến ai? Có những tối không hẹn, chỉ vì nhớ mà Thân tìm cách đi chậm chậm ngang qua nhà Thu, thưởng thức mùi hoa hoàng lan. Tuổi tác chênh lệch làm cho dòng suy nghĩ của hai người có khoảng cách: Thu vô tư hồn nhiên, Thân lo xa cả nghĩ. Ai bảo đàn ông không ế vợ, ai bảo đàn ông dễ chọn vợ. Từ khi ý tưởng lấy vợ nhen nhúm trong Thân cũng là lúc mặc cảm chen vào. Thu cao ráo, xinh gái, con một, nhà khá giả, ba mẹ đầy đủ còn Thân mồ côi. Mặc cảm và tự ái là anh em sinh đôi, một khi vô tình chạm vào nỗi đau thì tự ái nổi dậy và sẵn sàng buông bỏ tất cả để còn chỉ giữ lấy một cái “tôi”, cho dù cái tôi ấy thấp bé, hèn mọn. Không lẽ cái tôi của người ta sinh ra chỉ để làm khổ lẫn nhau.

Mắt em nhìn màn hình, gương mặt đăm chiêu, một tay cầm micrô, một tay diễn tả tâm trạng theo lời nhạc, đôi chân nhịp nhịp trên sàn gạch. Nhấp một chút bia Thân có cảm giác như can đảm hơn, đặt nhẹ một tay thăm dò trên vai trần của Thu, em vẫn say sưa theo điệu nhạc “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em không hề hối tiếc”. Thân vẫn thường nghĩ: tình yêu không đến và cũng không đi, chỉ có sự thương, ghét hiện diện trong mỗi con người chúng ta. Tay Thân như muốn ghì mạnh hơn và vòng sang phía trái hôn nhẹ vào má em... Thời gian dần trôi, nhạc điệu vẫn còn phát ra trên máy, liếc mắt nhìn màn hình dòng chữ màu vẫn đang tô, sao không có tiếng hát? Thân lịm dần đi và chợt hiểu không phải chỉ có Thân đang hôn em mà còn có ai đó đang hôn mình!

Bây giờ Thân không còn nghe tiếng chị Hai phàn nàn về áo nhăn, tóc dài, phòng thiếu ngăn nắp mà nghe từ một tiếng nói khác, giọng quen thuộc với điệp khúc “giờ này mà anh chưa đi tắm!”.


H Ế T
 

CongVoi

Super V.I.P
Chuyện không thể gọi tên
Nguyễn Danh Lam



Cặp kính anh đã tháo bỏ đầu giường. Mặt chiếc đồng hồ không nhìn rõ số, mờ mờ một quầng trắng trong đêm. Anh bật điện thoại, hướng ánh sáng về phía nó. Vẫn chẳng thấy. Cô đang ngủ, ngực ập vào chiếc gối ôm, thở đều. Nằm thêm một lúc, anh chỏi tay ngồi dậy. Cô thở nhẹ, trở mình về phía ngược lại. Lại thở đều. Anh đã buông hai chân xuống đất, nghĩ sao, trườn người lên hôn nhẹ tóc cô. Cô càm ràm:
- Ngủ đi. Mai lại dậy trễ...
Anh không trả lời, quờ tay lấy gói thuốc trên cái tủ đầu giường.

Trăng sau mưa. Ướt. Một chuỗi sương huyền bí lóe dọc thành lan can. Anh vẫn không mang kính lên. Ngắm đêm qua cặp mắt của người cận thị có cái hay của nó. Những đốm đèn phía xa tỏa lên thành quầng. Lạ lùng. Rờn rợn.

Chiếc điện thoại đã hiện rõ màn hình. 1 giờ 44, nó đang nhảy... 1 giờ 45. Anh chống hai tay lên thành lan can. Đốt một điếu thuốc. Còn khoảng mười đến mười lăm phút nữa. Thấy ướt ướt dưới chân, anh bật đèn trần ban công. Thì ra mưa tạt. Hôm nay thứ bảy. Cô sẽ về muộn hơn. Có tiếng máy xe nổ từ xa. Xa thế này khó phân biệt là một chiếc hay hai chiếc. Đôi khi gã chở cô về. Đôi khi cô chạy một mình. Thường thì một mình. Chiếc xe trắng. Chờ thêm một lát. Tiếng máy xe lại lịm. Đúng "lịch" còn khoảng bảy phút nữa.

Mấy con thiêu thân bay quàng đập vào mặt anh. Anh mang kính lên. Tạnh mưa, thiêu thân lại vào. Nguyên nhân là cái bóng đèn kia. Anh vào phòng, lấy chiếc ghế. Đáy cái chụp đèn đầy xác thiêu thân. Anh vặn cái chụp. Một đám thiêu thân khô cong. Nhưng anh nghĩ, nếu đổ xác chúng ra cái bóng đèn sẽ quá sáng. Lại vặn vào. Tốt nhất là tắt luôn cái đèn đi. Anh trả chiếc ghế vào phòng. Trở ra. Ngồi trong bóng tối. Việc vặn cái chụp đèn mất mười ba phút. Cô vẫn chưa về.

Con hẻm cách dưới chân anh chín mét. Có lẽ hơn một chút. Phía dưới có một cái cột đèn. Ngược sáng. Nếu cô có ngước mặt lên cũng sẽ chẳng thấy anh. Nhiều đêm anh đã cho phép mình nhô hẳn đầu ra khỏi thành lan can. Những đêm trong tuần, cô thường về sau 0 giờ. Thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ thường khoảng 2 giờ. Đôi khi sớm hơn, hoặc trễ hơn.
Cái nắp cống dưới mặt hẻm bật lên thành một âm khô. Gã thanh niên tắt máy cho xe trôi vào hẻm. Chiếc xe dừng lại. Hôm nay cô mặc một cái váy màu vàng. Vàng hoa hướng dương. Hướng dương nửa đêm. Vầng lưng tỏa ngược ánh đèn, xanh như một thứ kem. Cô rút điện thoại, bấm phím. Gã thanh niên móc gói thuốc. Cô vừa nghe điện thoại vừa chìa tay. Gã thanh niên gắn thẳng điếu thuốc lên môi cô. Bật lửa. Cô kẹp điếu thuốc trên hai đầu ngón tay. Rít vài hơi, chìa lại phía gã. Gã quay đầu xe. Cô vẫn nói chuyện điện thoại. Tiếng máy xe nổ. Còn lại mình cô trên mặt hẻm. Anh nép hẳn vào bụi cây trên sân thượng. Nước lạnh buốt trôi xuống cổ. Cô vẫn nói chuyện điện thoại. Bất ngờ, cô ngước mặt lên. Theo phản xạ anh giật mình chui tọt đầu vào lan can. Tất nhiên cô không thấy. Nhưng anh kịp nhìn rõ trong một tích tắc những vệt kim tuyến lấp lánh trên hai quầng mắt cô. Quầng mắt tô rất đậm, cũng hắt ánh vàng kim. Hai vệt chì kẻ lông mày đen nhánh. Cô cách anh chín mét, nhưng dường vẫn nghe mùi hương tỏa dìu dịu...

Cuộc nói chuyện qua điện thoại kéo dài hơn mười phút. Cô đóng nắp máy, lục cái bóp tìm chìa khóa. Con chó xù từ trong nhà lao vọt ra. Nó quẫy đuôi, mũi chúi vào đôi giày cao gót. Cô kéo sợi xích. Con chó lăng xăng chạy trước. Nó gác chân lên cột đèn. Cô kéo mạnh sợi xích. Con chó đi theo hướng giật lùi vào cửa. Tiếng rít dài của kim loại. Anh còn nghe thêm một chuỗi lách cách, cô vặn ổ khóa.

Trăng trượt qua đỉnh đầu. Thành lan can ướt lạnh. Anh rút điếu thuốc cuối cùng, bóp cái gói. Đêm còn lại đúng nghĩa đêm. Mênh mông. Anh ở ngoài mọi căn nhà.
Anh mở cửa sân thượng. Khoảng cách với dưới kia đã là mười hai mét. Có một chuyến bay ngang đầu. Không rõ cất cánh hay hạ cánh. Đèn đỏ dưới cánh chớp đều. Gió. Gió khiến anh khẽ rùng người. Ánh đèn phía phòng cô còn sáng. Cô đang tẩy trang, bước vào bồn tắm. Anh chỉ nghĩ đến đấy, chưa bao giờ lấn thêm. Tại sao nhỉ? Anh tự mỉm cười. Ánh đèn bên kia tắt hẳn. Anh ngồi thêm một lúc. Một con chó sủa, âm điệu nửa tỉnh nửa mơ. Lắc ắc.

Khi anh trở lại phòng, cô đã nằm ngang qua mặt nệm. Anh đẩy nhẹ, vừa một chỗ. Lại nằm xuống. Cô nghiến răng. Chắc ngủ say. Anh lùa tay tìm được mấy sợi tóc. Đưa lên môi, cắn nhẹ. Con chó ngoài hẻm vẫn sủa. Mặt cô trắng dưới ánh đèn từ cửa sổ hắt vào. Lông mày cong. Sống mũi thanh tú. Cô đẹp. Anh nghe mùi thuốc lá từ miệng mình hôi gắt, trộn với mùi thơm từ mái tóc cô. Chẳng ra một thứ mùi gì cả. Đồng hồ điện thoại chỉ 3 giờ 21. Anh tắt máy. Cố thở thật sâu. Sực nhớ mình quên để chuông báo thức, anh lại mở máy. Ánh sáng từ màn hình làm cô thức giấc. Cô trườn ngang người anh. Đầu gối thúc thẳng vào bụng. Cô lảo đảo bật đèn phòng vệ sinh.

- Sao anh chưa ngủ đi?
- Mai em cứ kêu. À mà anh đã để báo thức.
- Mấy giờ?
- Bảy...
- Sớm thế? Chín đi.
- Ừ...
Cô quàng tay ngang bụng anh, nằm xuống. Anh lật ngang về phía cô, thấy đôi mắt mở to. Cô cười.
- Tỉnh mất rồi.
- Thôi ráng ngủ đi.
- Không ngủ được nữa thì sao?
- Chẳng phải em nói anh sáng mai phải dậy à?
Cô kéo bàn tay anh đặt lên ngực mình. Anh để yên. Cô cũng nằm yên. Lát sau, anh biết cô đã ngủ lại.

Anh vẫn dậy đúng 7 giờ. Cô chưa dậy. Không có cảm giác thèm ngủ, anh đã quen với những giấc đêm chỉ chừng hơn bốn tiếng. Anh đẩy nhẹ cửa ra lan can. Nắng đã gắt. Cửa nhà đối diện vẫn khép im. Con chó xù cào cào bên trong, rên khẽ. Nó thèm ra ngoài. Nhưng việc ấy chỉ có thể đến sau bốn đến năm tiếng đồng hồ nữa. Cô dậy khi mọi người đã vào giấc ngủ trưa.

Anh xuống lầu. Có lẽ đi kiếm cái gì ăn sáng rồi mua về cho cô luôn. Đi ngang chỗ con chó đang cào, rên rỉ, anh dừng lại. Liếc nhanh vào bên trong. Sau lớp cửa sắt bên ngoài, còn một lớp cửa nữa. Trí tưởng tượng dẫn anh lên cầu thang, đẩy cửa phòng cô, nhìn vào gương mặt say ngủ, không trang điểm. Nó như thế nào nhỉ? Anh chưa bao giờ nhìn cô lúc không trang điểm. Tuy nhiên cô cũng mới chỉ đến ở đây được vài tháng.

Khi anh trở về nhà, cô đã dậy.
- Anh mua hủ tíu. Gỡ bịch, bỏ vô tô cho em nhé?
- Bữa qua mình mới ăn hủ tíu mà.
- Chết, anh quên.
- Thôi bỏ tủ lạnh. Đi, tiện ghé chỗ nào ăn. Trưa về tính sau.
- Cũng gần trưa rồi đấy.
- Vậy chút nữa đi ăn trưa luôn.
- Còn sáng nay? Tuần trước mình dự định làm gì nhỉ?
- Chắc đi mua cái gì đó... Để em nghĩ coi...
Tất nhiên cô luôn nghĩ ra một cái gì đó để mua.

Ngày chủ nhật trôi qua trong mấy thương xá. Chiều là rạp xi nê. Một bộ phim có người đi ra đi vào. Có nữ có nam. Hình như có vài người yêu nhau. Cô kéo tay anh:
- Về.
- Giờ ra làm sao lấy xe?

Họ đành ngồi lại thêm gần một tiếng.
- Chúng ta nên có con - Anh bảo cô trong bữa ăn tối.
Cô cười:
- Mình sẽ lại phải đón bà về ở chung.
Anh im lặng. Cô cũng chuyển đề tài:
- Bữa nay có đá banh không?
Anh gật. Cô hỏi:
- Vậy anh lên lầu hay em lên lầu?
- Anh lên lầu.

Cô chuyển kênh. Anh lục tủ lạnh lấy lon bia. Những trận banh thường diễn ra vào giờ nhà bên đèn tắt. Cô vẫn đi từ 5 giờ chiều. Anh có thể tập trung vào từng đường chuyền. Bữa nay lại khác. Vừa mở cửa phòng, liếc sang nhà đối diện, anh thấy một người đàn ông đứng bên lan can. Anh chưa thấy ông này bao giờ cả. Ít ra là từ lúc anh bắt gặp cô lần đầu trong hẻm.

Người đàn ông mặc bộ đồ thể thao màu trắng. Quần soóc. Áo có một cái sọc màu đỏ chạy vắt ngang ngực, trên có hình một cái vợt. Tóc ông ta đã bạc, nhưng người còn đậm chắc. Anh thấy cô thấp thoáng trong phòng. Người đàn ông đứng nhìn dọc con hẻm một lúc. Thoáng bóng cô đi ra. Rồi cả hai người vào. Rèm kéo lại.

Anh quay về với màn hình ti vi. Cầm remote. Âm thanh vọt lên quá mức. Tiếng cô dưới nhà:
- Em đang coi ca nhạc đó nghe.

Anh giảm âm thanh, nghĩ sao bấm phụp cho ti vi tắt hẳn. Mở nắp lon bia, anh uống từng ngụm chậm rãi.

Cô lên:
- Sáng mai phải đi làm. Thôi hôm nay ngủ sớm.
- Tùy em.
- Da em rát quá. Cả ngày nay đi nắng- Nói đến đó cô la một tiếng - Ôi...!

Anh giật mình:
- Chuyện gì vậy?
- Thấy da rát, mới nhớ bữa nay quên mua kem!

Mặc cô càm ràm với những món mỹ phẩm, anh mở lon bia tiếp theo. Định uống, nghĩ sao lại cất mình dậy:
- Em ngủ trước. Trận banh chưa hết...
- Em thấy anh có coi đâu?
- À... nghỉ giữa hiệp. Tắt. Anh xuống lầu đây.

Xuống đến nửa thang, anh nghe trong phòng tiếng cô hát. Bản nhạc trên ti vi vừa phát. Cô luôn thuộc ngay những giai điệu vừa coi trên ti vi. Hát hết đêm ấy. Hôm sau coi chương trình khác, lại đổi bài khác.

Trận banh đã hết hiệp một. Đang chương trình quảng cáo. Bia. Ti vi. Hàng không. Gần hết hai lon bia. Anh có cảm giác hơi buồn ngủ. Vươn vai một cái. Duỗi thẳng hai chân. Anh thấy hai mũi bàn chân chỉ còn lộ ra lấp ló qua đỉnh bụng. Bụng mình to rồi. Có lẽ phải tập thể thao. Đi bơi? Cô sẽ đòi theo! Đánh ten-nít? Hay đấy. Mai sẽ vào công ty hỏi mấy đứa bạn về sân bãi. Nghĩ đến ten-nít, anh nhớ lại người đàn ông ở ban công đối diện. Tay vẫn cầm lon bia, anh lững thững lên lầu, không quên kẹp theo gói thuốc.

Ánh đèn vàng nhẹ hắt ra từ cửa sổ đối diện. Anh ợ một cái. Mùi bia ựa lên. Bỏng rát. Sau tấm rèm có bóng người thấp thoáng. Rồi đèn bật sáng. Cô vén rèm nhìn ra ngoài, rồi lại buông xuống ngay. Đúng là cô. Nhưng chỉ thấy mái tóc dài. Bờ vai.

Đèn lần lượt bật sáng từ lầu trên xuống lầu dưới. Có tiếng rít cửa sắt. Anh chồm vội ra thành lan can. Cô đứng áp vào một bên cửa. Chiếc áo ngủ mỏng tang. Một cái đít xe lùi ra cửa. Người đàn ông hồi nãy. Đã thay bộ đồ khác.

Người đàn ông ngồi trên xe, kéo đầu cô gái lại. Một cái hôn lên má. Anh thấy cô đưa nốt má bên kia. Ông ta đề máy. Cô đứng vẫy theo bằng tay phải, tay trái vẫn cầm cái điện thoại. Ánh đèn phía sau xe đỏ lòe cuối hẻm.

Cô bấm máy. Con chó xù chạy quẩn dưới chân. Cô ngồi xuống, vừa nói chuyện qua điện thoại vừa vỗ vỗ đầu nó. Cuộc điện đàm ngắn. Cô bỏ máy vào cái túi trước bụng. Gió lướt qua mặt hẻm. Tấm áo ngủ dán xuôi thân thể cô. Anh thấy một cặp chân thẳng, đầy đặn. Chờ con chó gác chân lên cột đèn xong, cô trở vào. Không thấy tiếng rít cửa sắt. Cô khuất hẳn. Anh hơi cúi người dòm xuống phía dưới. Quả là hai lá cửa chưa kéo lại. Thế nghĩa là cô còn trở ra.

Anh mồi một điếu thuốc, phả khói ngược lên bầu trời. Trăng trồi ngụp sau những đám mây. Hôm nay không mưa. Gió hơi ngợp. Anh lại thò cổ qua lan can. Hẻm vắng ngắt. Đèn vàng vọt. Lũ thiêu thân hôm nay không xuất hiện. Một con mèo phóng loảng choảng trên mấy tấm tôn phía dưới anh. Anh lại thèm một ngụm bia. Cái lon đã rỗng. Phải nhớ đem xuống. Sáng mai rất có thể cô sẽ phát hiện đêm nay anh lên sân thượng uống bia một mình. Chẳng sao cả. Nhưng anh vẫn thấy không nên để cô biết điều đó. Anh muốn xuống lầu lấy thêm một lon bia, nhưng thò mặt ra khỏi lan can, anh lại nghĩ, thôi.

Có tiếng máy xe. Hẻm giờ này rất hiếm xe vào. Thì ra là gã thanh niên. Không thấy cô xuất hiện. Gã thanh niên tự đẩy xe vào nhà. Lần này thì tiếng cửa sắt rít một hồi dài. Đèn dưới lầu tắt. Đèn trên lầu tắt.

Anh xuống trệt. Một trận bóng đá khác. Giải ở một quốc gia nhỏ. Anh không theo dõi giải này. Lúc nãy cơn buồn ngủ ập đến, nhưng giờ đầu anh chỉ thấy khô khốc. Đã quen với những giấc ngủ từ quãng 3 giờ sáng, có lẽ đêm nay sẽ phải nhồi nốt vài trận banh. Cũng may, đêm chủ nhật, đài phát nhiều bóng đá.

Cuối cùng anh ngủ quên trên ghế. Ti vi vẫn mở. Khi anh tỉnh dậy, màn hình đã chuyển sang cảnh mấy gã đàn ông đồ sộ đang đánh nhau. Cổ anh mỏi nhừ vì nằm sai tư thế. Chẳng biết đã mấy giờ. Anh ngần ngừ không biết có nên lên sân thượng nữa không. Đi ngang phòng, thấy cánh cửa khép hờ. Bên trong máy lạnh vẫn mở. Anh chỉ định đóng lại rồi lên tiếp, nhưng cơn buồn ngủ cùng cái cổ đau tức kéo anh vào.

Đám bạn rất nhiệt tình khi thấy anh có ý định gia nhập nhóm ten-nít.
- Đúng đấy, bụng mày bự thế kia. Chỉ vài tháng nữa là... hai thằng không còn nhìn thấy nhau. Tập đi là vừa.
Những gã hiểu ý, bật lên cười hô hố. Anh gật đầu:
- Mua vợt và đồ ở đâu?
- Ở đâu chả có, ten-nít giờ phát triển, tỉ lệ thuận với mấy thằng phát phì như tụi mình!

11 giờ, anh nhận được tin nhắn của cô: Đi ăn trưa không? Tin nhắn lại: OK.
Ở quán ăn trưa, cô hồ hởi:
- Tụi nó vừa rủ, cuối tuần này đi X tắm biển. OK nha!
Anh vuốt gáy, thấy vẫn hơi mỏi:
- Ừ.
- Vậy em dặn tụi nó chừa chỗ xe, đặt thêm phòng.

Anh thở ra. Có lẽ phải đổi gió hai ba ngày thật. Khi trở về sẽ bắt đầu đánh ten-nít.


oOo


Từ X về, anh thấy trước cửa nhà bên một ổ khóa bằng đồng bắt vào hai sợi xích vòng ra từ bên trong. Anh nhớ trước đây cô chỉ dùng cửa kéo, không có ổ khóa này. Tối ấy, như thường lệ, đèn vẫn tắt. Anh chờ đến 3 giờ sáng. Chiếc ổ khóa vẫn câm lặng.
Một tuần như thế trôi qua. Anh hiểu cô đã rời khỏi con hẻm. Bình thường như lúc đến.


H Ế T
 

CongVoi

Super V.I.P
Ngụy Biện & Tình Yêu
by Max Shulman
Nguyễn Vĩnh dịch



... Từ lâu tôi đã muốn chiếm được Po-lie-xpai. Xin nói rõ thêm rằng lòng mong muốn này của tôi, về thực chất, không thuộc phạm trù tình cảm. Dĩ nhiên, Po-li là một cô gái làm mọi người xúc động, nhưng tôi không phải loại người để trái tim chi phối cái đầu. Tôi muốn có Po-li vì một lý do được cân nhắc kỹ càng, hoàn toàn có tính chất lý trí.

Tôi đang học năm thứ nhất trường Luật. Vài năm nữa, tôi sẽ ra trường hành nghề. Tôi biết rất rõ tầm quan trọng của kiểu người vợ khả dĩ đem lại thành công rực rỡ cho một luật sư. Những luật sư ăn nên làm ra mà tôi đã quan sát, hầu như không trừ một ai, đều có vợ là những phụ nữ đẹp, duyên dáng, thông minh. Po-li hoàn toàn đáp ứng điều đó, trừ một phương diện.

Cô ta đẹp, cái đó đã hẳn. Tuy cô chưa có kích thước của một "hoa hậu", nhưng tôi tin chắc là thời gian sẽ bổ sung vào những thiếu sót đó. Cô ta đã có sẵn những tiền đề rồi.

Cô ta rất duyên dáng, đó cũng là một điều chắc chắn. Tôi muốn nói là vẻ người cô ta rất hấp dẫn, dáng vóc thanh mảnh, phong thái, tự nhiên, cử chỉ tỏ rõ là con nhà nề nếp loại nhất. Cung cách cư xử ăn uống của cô thật là không chê vào đâu được.

Nhưng cô ta không thông minh. Nói thật tình, cô ta còn có vẻ đi theo hướng ngược lại. Nhưng tôi tin rằng dưới sự hướng dẫn của tôi, cô sẽ trở nên thông minh. Dẫu sao thì cũng đáng công thử xem thế nào. Xét cho cùng, làm cho một cô gái đẹp ngu đần trở thành thông minh còn dễ hơn là làm cho một cô gái thông minh nhưng xấu trở thành đẹp.

Cuộc hẹn gặp đầu tiên của tôi với Po-li có tính chất một cuộc điều tra. Tôi muốn tìm hiểu xem tôi sẽ phải làm gì để nâng trí tuệ của cô ta lên tới cái mức cần thiết. Trước hết tôi đưa Po-li đi ăn.

- Trời, bữa ăn ngon tuyệt - Po-li nói sau khi chúng tôi rời khỏi hiệu ăn.

Rồi tôi đưa cô đi xem chiếu bóng.

- Trời, phim hay tuyệt - Po-li nói sau khi chúng tôi rời khỏi rạp.

Sau đó tôi tiễn cô về nhà.

- Trời, hôm nay đi chơi tuyệt quá! - Po-li nói sau khi tạm biệt tôi, chúc tôi ngủ ngon.

Tôi trở về nhà, lòng nặng trĩu. Tôi đã đánh giá quá thấp khối lượng công việc tôi đã phải làm. Cô gái thiếu hiểu biết một cách khủng khiếp! Mà chỉ cung cấp hiểu biết cho cô ta thôi cũng không đủ. Trước hết mọi chuyện, phải dạy cho cô ta biết suy nghĩ. Chuyện này có vẻ là một nhiệm vụ không phải nhỏ. Và thoạt đầu, tôi đã có ý buông cô ta cho Pi-ti Be-lô, một anh chàng vẫn ve vãn cô. Nhưng rồi tôi lại nghĩ đến khuôn mặt, thân hình đẹp đẽ, hấp dẫn của cô, cái cách cô bước vào một căn phòng và cái lối cô cầm dao, cầm dĩa, thế là tôi quyết định sẽ cố gắng một phen.

Tôi đi vào công việc này một cách có kế hoạch, có hệ thống, như trong mọi việc tôi làm. Trước hết tôi dạy cô về lô-gíc. Tôi học Luật và đang học môn Lô-gic, cho nên nắm rất vững vấn đề. Lần gặp sau tôi bảo Po-li :

- Này em, tối nay chúng ta đi chơi nói chuyện.

- Ô, tuyệt quá! - Po-li đáp.

Chúng tôi tới công viên, ngồi dưới một gốc cây sồi cổ thụ và cô nhìn tôi, vẻ chờ đợi :

- Chúng ta nói chuyện gì bây giờ, hở anh ?

- Nói chuyện về lô-gíc.

Po-li suy nghĩ một lát rồi quyết định là cô ta thích vấn đề đó :

- Tuyệt!

Tôi hắng giọng :

- Lô-gíc là khoa học về tư duy. Trước khi biết cách suy nghĩ đúng đắn, trước hết chúng ta phải học cách nhận ra những cái ngụy biện thông thường của lô-gíc. Tối nay chúng ta nói về vấn đề đó.

- Tuyệt! - Po-li vỗ tay ra vẻ rất thích thú.

Tôi chớp mắt nhưng vẫn dũng cảm tiếp tục :

- Trước hết, chúng ta hãy nghiên cứu cái ngụy biện gọi là "phép đơn giản hóa".

- Ôi, anh nói đi - Po-li giục tôi, hai hàng lông mi chớp chớp, chờ đợi.

- Phép đó trỏ một lý lẽ dựa trên một sự-khái quát hóa không đúng. Thí dụ : tập thể dục là tốt. Do đó ai ai cũng phải tập thể dục.

- Đồng ý ! Em đồng ý đấy. - Po-li hăm hở - ý em muốn nói là tập thể dục rất tuyệt, nó làm cho cơ thể cân đối, đẹp ra và vân vân ...

Tôi nhẹ nhàng bảo :

- Po-li, lý lẽ đó là ngụy biện. "Tập thể dục là tốt" là một khái quát hóa không đúng. Chẳng hạn, nếu ta đau tim, thì tập thể dục là không tốt, mà còn là có hại. Nhiều người được bác sĩ dặn là không được tập. Cho nên ta phải xác định cho đúng sự khái quát hóa đó: phải nói là "tập thể dục, thường là tốt" hay là "tập thể dục là tốt đối với nhiều người". Nếu không ta sẽ phạm phải cái lối ngụy biện "đơn giản hóa". Em rõ chưa nào?

- Chưa. - Po-li thú thật - Nhưng hay lắm! Anh nói nữa đi!

- Em đừng giật tay áo anh như thế. - Tôi bảo, rồi nói tiếp - Rồi đến lối ngụy biện gọi là "Khái quát hóa vội vã". Em hãy nghe cho kỹ: Anh không nói được tiếng Pháp, em không nói được tiếng Pháp. Pi-ti Be-lô không nói được tiếng Pháp. Do đó anh phải kết luận rằng ở trường đại học Mi-nê-xô-ta này, chẳng ai nói được tiếng Pháp cả.

- Thật à? - Po-li ngạc nhiên hỏi - Không ai nói được à?

Tôi cố gắng che giấu nỗi thất vọng, bực dọc:

- Po-li, đấy là một ngụy biện. Khái quát hóa quá vội vã. Có quá ít thí dụ để đảm bảo cho một kết luận như vậy.

Po-li hối hả giục:

- Anh còn biết những ngụy biện gì nữa không? Thật là tuyệt, có lẽ còn tuyệt hơn cả khiêu vũ nữa chứ!

Tôi cố gạt đi nỗi thất vọng đang dâng lên trong lòng. Tôi đang làm một việc uổng công với cô gái này, có lẽ chẳng đi đến đâu cả. Nhưng được cái là tôi kiên nhẫn nên vẫn tiếp tục:


- Nhưng em không thấy là nếu Chúa có thể làm được bất cứ việc gì, thì Chúa có thể nhấc nổi hòn đá chứ ?

- Ừ nhỉ. - Po-li có vẻ suy nghĩ - Thế thì có lẽ là Chúa không làm được hòn đá đó.

- Nhưng Chúa làm được mọi chuyện cơ mà ! - Tôi nhắc.

Po-li gãi gãi cái đầu xinh đẹp nhưng trống rỗng của cô, cuối cùng cô thú nhận :

- Em chẳng biết thế nào nữa.

- Dĩ nhiên là em biết làm sao được. Vì khi tiền đề của một lý lẽ mâu thuẫn với nhau thì không thể có lý lẽ được nữa. Nếu như có một sức mạnh không gì cưỡng nổi thì không thể có một vật gì không thể lay chuyển được. Nhưng nếu có một vật không thể lay chuyển được thì tất nhiên là không thể có một sức mạnh không gì cưỡng nổi. Rõ chưa ?

- Anh nói cho em nghe rõ thêm nữa đi. - Po-li hăng hái nói.

Tôi nhìn đồng hồ :

- Có lẽ tối nay nên dừng lại ở đây thì hơn. Bây giờ anh đưa em về, em sẽ ôn lại tất cả những cái đã học. Tối mai chúng ta sẽ tiếp tục học bài mới.

Tôi đưa Po-li về ký túc xá của cô. Cô cho tôi biết là cuộc đi chơi trò chuyện tối đó thật là tuyệt. "Cực kỳ đấy!" - Cô nói. Còn tôi thì buồn rầu trở về chỗ tôi ở. Có vẻ dự định của tôi sẽ thất bại mất thôi. Cô gái rõ ràng là có cái đầu không hiểu nỗi lô-gíc.

Nhưng rồi tôi lại nghĩ lại. Tôi đã phí mất một buổi tối. Mất một buổi nữa cũng chẳng sao. Biết đâu đấy. Có thể đâu đó trong cái trí óc tắt ngấm của cô ta vẫn còn âm ỉ vài cục than hồng, biết đâu tôi chẳng làm cho chúng bùng cháy lên. Đành rằng chẳng có nhiều nhặn hi vọng gì, nhưng tôi quyết định thử thêm một lần nữa.


Tối hôm sau, ngồi dưới gốc cây sồi, tôi bảo :

- Ngụy biện mà tối nay chúng ta đề cập đến là "Dùng thương hại làm mủi lòng".

Po-li run lên vì thích thú.

- Em hãy nghe cho kỹ nhé. Một người đi xin việc. Khi ông chủ hỏi khả năng chuyên môn của anh ta thì anh ta trả lời là anh ta có một vợ và sáu con, vợ thì què quặt không làm được gì, con cái thì chẳng có gì ăn, không có áo mặc, chân không có giày, nhà thì không có giường, không có than mà mùa đông lại sắp tới ...

Môt giọt nước mắt lăn trên gò má hồng của Po-li. Cô sụt sịt :

- Ôi, thật là thảm quá !

- Đúng, thật là thảm. - Tôi đồng ý - Nhưng đó không phải là một lý lẽ. Người kia đã không trả lời vào câu hỏi của chủ về khả năng chuyên môn của anh ta mà lại đi kêu gọi lòng thương của chủ. Anh ta đã phạm vào ngụy biện "Dùng thương hại làm mủi lòng". Em hiểu chưa ?

Cô ấp úng :

- Anh có khăn mùi xoa đấy không ?

Tôi đưa mùi xoa cho cô và cố nén tiếng hét đang ứ lên cổ trong khi cô ta lau nước mắt. Tôi cố kiềm chế giọng nói của mình cho bình thường :

- Bây giờ ta bàn đến "Loại suy sai". Đây là một thí dụ : Sinh viên phải được phép nhìn vào sách giáo khoa trong khi thi. Xét cho cùng thì các nhà phẫu thuật trong khi mổ, có máy X-quang hướng dẫn, luật sư khi cãi trước tòa, có giấy tờ, văn bản trong tay, thợ mộc dựng nhà có bản thiết kế hướng dẫn... Vậy thì tại sao sinh viên lại không được phép xem sách khi thi ?

Po-li hăng hái nói :

- Ồ, đúng là một ý cực kỳ hay mà nhiều năm nay em chưa từng nghe thấy.

Tôi nói sẵng :

- Po-li. Lý lẽ đó hoàn toàn sai. Bác sĩ, luật sư, thợ mộc, ... không phải là đang thi để xem họ đã học được những gì, khác với anh sinh viên. Hoàn cảnh họ hoàn toàn khác, không thể loại suy được.

- Em vẫn cho đó là một ý cực kỳ ... - Po-li nói.

- Cực kỳ... con khỉ - tôi lầm bầm, nhưng tôi vẫn ngoan cường tiếp tục - Sau đây ta xét đến ngụy biện "Giả thuyết trái với thực tế".

- Nghe có vẻ hay đấy nhỉ - Po-li nói.

- Em nghe đây : Nếu bà Quy-ri không tình cờ để quên một phim ảnh trong ngăn kéo cùng với một mẩu quặng Ra-đi-um thì ngày nay thế giới chẳng biết gì về Ra-đi-um hết.

- Đúng - Po-li gật gật - Anh có xem phim không ? Chà, thật là mê li ! Tài tử Oanh-tơ Pít-giơn thật là hết ý!...

- Em có thể quên cái nhà ông Pít-giơn đó đi một lát được đấy - Tôi lạnh lùng nói - Anh muốn chỉ ra rằng lời tuyên bố đó là một ngụy biện. Có thể bà Quy-ri sẽ tìm ra Ra-đi-um một ngày nào sau đó. Có thể một người khác sẽ tìm ra. Không thể bắt đầu bằng một giả thuyết không thật rồi từ đó rút ra những kết luận có cơ sở được.

- Đáng lẽ ra họ phải để Oanh-tơ Pít-giơn đóng nhiều phim hơn mới phải. - Po-li nói - Em chẳng được xem thêm phim nào có anh ta nữa.

Tôi quyết định thử một lần cuối cùng. Chỉ một lần nữa thôi. Máu thịt con người chịu đựng cũng có giới hạn.

- Ngụy biện tiếp theo được gọi là "Bỏ thuốc độc vào giếng".

- Ồ, kỳ lạ nhỉ ? - Po-li trố mắt.

- Hai người tranh luận với nhau. Người thứ nhất đứng dậy nói "Đối phương của tôi là một tay nói dối có tiếng. Các ngài không thể tin được một lời nào của anh ta đâu." ... Po-li, bây giờ em nghĩ đi. Nghĩ cho kỹ. Sai ở đâu ?

Tôi chăm chú nhìn cô ta trong lúc cô nhíu tít cặp lông mày mượt mà, cong vút. Bỗng một ánh thông minh lóe lên - ánh đầu tiên tôi thấy - trong mắt cô. Cô công phẫn nói :

- Thế là không công bằng. Hoàn toàn không công bằng. Người thứ nhất bảo người thứ hai là một kẻ nói dối ngay cả trước khi người thứ hai mở miệng thì người này còn có hi vọng gì nữa ? ...

- Đúng ! - Tôi phấn khởi kêu to - Đúng một trăm phần trăm ! Người thứ nhất đã "bỏ thuốc độc vào giếng" trước khi mọi người uống nước giếng. Anh ta đã hãm hại đối phương trước khi người này bắt đầu... Po-li, anh rất tự hào về em ...

- Ồ! - Cô lẩm bẩm, mặt đỏ lên vì sung sướng.

- Em thân mến, em thấy không, có gì là khó đâu ? Chỉ cần em tập trung suy nghĩ thôi ... Suy nghĩ - nghiên cứu, đánh giá. Bây giờ ta ôn lại tất cả những gì ta học nhé !

- Anh cứ hỏi đi. - Po-li khẽ vung bàn tay, bình tĩnh nói.

Phấn khởi vì thấy Po-li cũng không phải là ngu đần gì, tôi kiên nhẫn nhắc lại tất cả những điều tôi đã giảng giải. Tôi nêu lên nhiều thí dụ, chỉ ra những chỗ sai, ra sức phân tích không biết mệt, cứ như là đào hầm vậy ... Tôi không biết lúc nào thì ra tới ánh sáng mà liệu có ra được tới ánh sáng không đây. Nhưng tôi kiên trì đào, bới, cuốc, cào ... Và cuối cùng tôi đã thành công, tôi đã thấy hé ra một ánh sáng. Rồi ánh sáng đó lớn dần và mặt trời lùa vào, mọi thứ đều sáng rực.

Mất năm tối cả thảy, nhưng thật là bõ công. Tôi đã biến Po-li thành một người tinh thông lô-gíc. Tôi đã dạy cho cô biết suy nghĩ. Công việc của tôi đã xong. Cuối cùng cô đã xứng đáng với tôi. Đúng là một người vợ thích hợp cho tôi, xứng đáng với nhà cao cửa rộng tôi sẽ có sau này, một người mẹ thích hợp với những đứa con thông minh, xinh đẹp của tôi ...

Đừng nghĩ rằng tôi không yêu Po-li. Trái lại. Cũng như Píc-ma-li-ôn yêu tượng người phụ nữ hoàn hảo mà ông đã tạc ra, tôi yêu người con gái mà tôi đã đào tạo nên. Tôi quyết định ngỏ cho cô ta biết tình cảm của tôi vào buổi gặp sắp tới. Đã đến lúc phải biến chất mối quan hệ giữa chúng tôi, từ tính chất kinh viện sang tính chất lãng mạn.

- Po-li - tôi nói, khi chúng tôi ngồi dưới cây sồi - Tối nay, chúng ta sẽ không nói đến những ngụy biện nữa.

- Ồ ! - Cô nói, có vẻ thất vọng.

- Em thân yêu - Tôi hạ cố mỉm cười với cô - Chúng ta đã ngồi với nhau năm tối rồi. Năm tối rất tốt đẹp. Rõ ràng là chúng ta rất hợp với nhau.

- "Khái quát hóa vội vã" - Po-li nhắc lại - Làm sao anh có thể nói được là chúng ta rất hợp nhau trên cơ sở có năm cuộc gặp gỡ thôi ?

Tôi tặc lưỡi, thú vị. Cô bé học thuộc bài quá.

- Em ạ. - Tôi vuốt ve bàn tay cô một cách khoan dung - Năm lần gặp nhau là quá đủ rồi. Xét cho cùng, em chẳng cần ăn hết một cái bánh ga-tô mới biết là bánh ngon chứ ?

- "Loại suy sai" - Po-li nói ngay - Em không phải là một cái bánh ga-tô, em là một cô gái.

Tôi tặc lưỡi, lần này kém phần thú vị hơn lần trước. Có lẽ cô bé học bài thuộc quá mức cần thiết. Tôi quyết định đổi chiến thuật. Rõ ràng phương pháp tốt nhất là tỏ tình một cách đơn giản, mạnh mẽ, trực tiếp. Tôi ngừng một lát trong khi khối óc đồ sộ của tôi lựa chọn những lời lẽ thích đáng. Rồi tôi bắt đầu :

- Po-li, anh yêu em. Em là tất cả vũ trụ đối với anh, là mặt trăng, là những ngôi sao, những chòm tinh tú trong không gian. Em thân yêu, em hãy nói là em sẽ sống suốt đời với anh vì nếu không thì cuộc đời đối với anh sẽ không còn ý nghĩa gì nữa. Anh sẽ khô héo, tàn tạ, anh sẽ không ăn, không ngủ, đi lang thang trên mặt đất này như một bóng ma âu sầu, thui thủi ...

Tôi khoanh tay lại, chắc là phải "ăn tiền" rồi.

- "Dùng thương hại làm mủi lòng". - Po-li nói.

Tôi nghiến răng ken két. Tôi không phải là Píc-ma-li-ôn, tôi là Phrăn-ken-xten và con quỷ đang bóp cổ tôi. Tôi cuống cuồng đẩy lùi làn sóng hoảng hốt đang tràn lên trong lòng. - Bằng bất cứ giá nào, tôi phải bình tĩnh - Tôi gượng cười :

- Ồ, Po-li, em thuộc bài về ngụy biện quá nhỉ ?

- Đúng thế ! - Po-li gật mạnh đầu.

- Thế ai dạy em ?

- Anh chứ ai nữa ?

- Đúng. Vậy là em cũng nợ anh một cái gì đó, phải không em ? Nếu không có anh, em chẳng bao giờ biết về ngụy biện.

- "Giả thuyết trái với thực tế". - Po-li lại nói ngay.

Tôi quệt mồ hôi trán.

- Po-li, - Giọng tôi khàn khàn - Em không nên hiểu những cái đó máy móc quá ! Anh muốn nói đó chỉ là những chuyện ở trường học thôi. Em cũng biết đấy, chuyện sách vở ấy mà, nào có ăn nhằm gì với đời sống thật đâu !

- Lại "đơn giản hóa" rồi. - Po-li vừa nói vừa vui vẻ trỏ vào mặt tôi.

Tôi không nhịn được nữa, vùng đứng lên, rống như một con bò :

- Thế em có bằng lòng lấy anh không thì bảo ?

- Không. - Cô đáp.

- Tại sao ?

- Vì chiều hôm nay em đã hứa hôn với Pi-ti Be-lô rồi mà !
 

CongVoi

Super V.I.P
Tiếng chuông gió
Ngân Hoa




Một sớm Trần thức dậy muộn hơn lệ thường và nghe thấy tiếng đồng ngân lên khe khẽ ở đâu đó. Chàng nhận ra thanh âm của những chiếc chuông gió treo phía trên mấy bụi hồng quế. Chùm chuông gió treo ở đó từ lâu lắm rồi, có lẽ từ hồi ngôi nhà này được sửa lại lần cuối, khi mẹ chàng dọn về ở hẳn đây cho đến lúc bà qua đời vào lúc 6 giờ kém 15 phút một buổi chiều mùa đông năm ngoái. Vậy mà dường như đến tận bây giờ, Trần mới nghe thấy tiếng chuông ngân run rẩy trước hiên nhà.

Lúc Trần ngồi một mình uống trà trong phòng ăn, tiếng chuông gió đã lặng đi. Trần chợt nhớ ra rằng hình như chàng đã nghe thấy chùm chuông ấy rung lên một lần nào đó, vào một buổi sáng như thế này, nhưng ở một nơi khác, một cõi nào khác...


***


Trần lang thang trên đường. Hôm nay là ngày mất của mẹ chàng. Bà tắt thở lúc 6 giờ kém 15 phút chiều. Bây giờ là 6 giờ kém 15 phút chiều. ở một góc khuất, sát bức tường của một trường tiểu học, cạnh cổng ra vào, trong ánh mờ mờ vàng vọt hắt xuống từ một bóng điện chập chờn trên cột đèn chàng bất chợt nhìn thấy một thiếu phụ trùm khăn lụa màu huyết dụ. Nàng quay lưng lại phía chàng. Tấm khăn huyết dụ điểm những hoa văn hình đèn lồng nhỏ với những bông cúc màu hoàng kim lấp lánh trong bóng tối.

Nàng đứng đó một mình. Nàng đang chờ đợi. Trần nhìn thấy trong chiếc túi xách bằng vải thô giả thổ cẩm của nàng có một chiếc lược nhựa giả sừng. Một lọ tinh dầu hoa hồng nhỏ xíu đến từ Bungari. Một tập giấy lau miệng hiệu Pulppy. Một thỏi son màu dâu chín hiệu Lancome. Một hộp phấn Essance. Một hũ kem Nivea vừa để bôi tay vừa để bôi mặt. Một cái ví da kiểu đàn ông tiền lẻ tiền chẵn tiền giấy tiền xu để lẫn lộn. Một cái bấm móng tay đến từ Singapore có hình con sư tử. Một tờ hóa đơn điện thoại nhàu nát. Và thỉnh thoảng, một vài chiếc singum Cool Air thông mũi mát họng sảng khoái dài lâu...

Trần nhìn rõ ổ bánh mì kẹp trong giỏ xe và chai nước La Vie 500 ml. Chàng cảm thấy cơn đói cồn cào thường trực lúc 6 giờ kém 15 phút chiều. Một thằng nhỏ cao lớn gò lưng cưỡi trên xe đạp đua lượn tới sát bên chiếc Honda Super Dream mận chín của thiếu phụ choàng khăn lụa màu huyết dụ. Nàng hơi cau mày với nó. Thằng nhỏ gãi gãi đầu vẻ biết lỗi rồi vồ lấy ổ bánh mì trong giỏ xe. Vị bơ béo ngậy quyện với dăm bông, giò và tiêu đen hình như đang tan ra trong miệng Trần. Thằng nhỏ hôn phớt lên má mẹ nó. Cầm lấy chai La Vie và biến vào sau cánh cổng sắt của ngôi trường.

Thiếu phụ kéo lại tấm khăn trùm, loay hoay tìm chìa khóa trong cái túi xách giả thổ cẩm. Chìa khóa xe máy của nàng được xâu vào một cái vòng cùng với mười chiếc chìa khóa khác. Mười một chiếc chìa khóa trên một cái vòng inox. Trong đó có một chìa khóa tủ, một chìa khóa xe máy, bé nhất, một chìa khóa nhà, không phải ngôi nhà mà nàng vẫn trở về vào buổi tối. Trong ngôi nhà ấy, thứ đồ đạc đắt tiền nhất là tấm đệm bọc drap màu lục nhạt có hình lá dương xỉ bốn mùa xanh tươi. Còn lại là những chiếc chìa khóa chẳng biết mở vào đâu, chẳng biết để làm gì. Đó là chìa khóa của những cánh cửa đã mãi mãi đóng lại hoặc đã biến mất khỏi cuộc đời chủ nhân chùm chìa khóa. Nàng chẳng thể nào nhớ hết những cánh cửa đó. Và tất nhiên, không bao giờ nhớ chìa nào mở ra cánh cửa nào.

Trong chùm chìa ấy, chìa khóa tủ và chìa khóa xe máy hoàn toàn khác nhau về hình dáng và kích thước. Nhưng nàng vẫn tra nhầm hai chiếc chìa này và tất cả chìa của những cánh cửa đã biến mất vào hai ổ khóa nói trên. Khi cần mở tủ, nàng tra chìa khóa xe máy và ngược lại. Rồi nàng lại bình tĩnh thử lại. Tất nhiên, với mười chiếc chìa, cuối cùng nàng cũng mở được ổ khóa cần mở. Chiếc chìa thứ mười một, tạm gọi như vậy, lớn nhất, là chiếc chìa khóa mở cửa ngôi nhà có tấm đệm bọc drap màu lục nhạt chi chít lá dương xỉ tươi xanh. Chiếc chìa khóa vàng ấy không thể lẫn vào mười chiếc kia. Và nàng không bao giờ mở nhầm. Đó là điều chắc chắn. Điều kì lạ là chùm chìa như một cái xúc xắc to tướng này vẫn bám chắc vào ổ khóa khi xe chạy trên đường qua những quãng mấp mô.

Bây giờ, nó đang cắm vào tủ áo, nơi những manh áo dài có số đo rất khác nhau được treo song song trên loại mắc áo bằng nhựa tái sinh nhiều màu sắc. Có một cái áo dài bằng lụa tơ tằm màu cánh sen vẽ hình hoa sen tím hồng. Một cái màu lục vẽ hoa phù dung. Cái áo dài số đo lớn nhất màu tím than hoa văn lá trúc. Cái áo dài số đo nhỏ nhất may bằng tơ tằm Hàng Châu màu phấn hồng hoa văn hoa đào... Lúc này, thiếu phụ khoác tấm áo măng tô dạ xám đã sờn. Cái áo làm cho nàng có dáng vẻ của một con thiêu thân dưới bóng đèn lờ nhờ.

Một người đàn ông đi đến bên nàng. Ông ta mặc một cái veston ba khuy may bằng tuyt xi len màu tàn thuốc lá và chiếc cúc đầu tiên đã đứt. Đúng hơn là nó đã bị chính chủ nhân dứt đứt trước đó 30 phút. Giờ đây chiếc cúc ấy đang nằm trong túi áo ông ta. Trần ngửi thấy mùi xì gà Black Mild. Thiếu phụ mỉm cười với người đàn ông. Nàng chạm tay vào mái tóc dài rũ xuống ngang vai áo veston đứt cúc. Những ngón tay của nàng có mùi mật ong và nghệ tươi. Trần cúi xuống ngắm đôi giày của mình. Chàng lấy mũi giày hất một hòn sỏi vào lề đường. Chàng nghe thấy tiếng rơi khô khan của nó trên vỉa hè rải bê tông. Rồi Trần lảng vào một quán cafe gần đó.

Quán cafe này đối diện với Hanoi Hotel ngay sát bãi đậu xe. Trong Car-Park Cafe, những nhân viên phục vụ ngồi túm tụm trên vỉa hè, dưới hiên, nói tục xả láng trước mặt khách. Và nước chảy róc rách trên bức tường gốm giả đá. Và gió thổi lồng lộng vào chỗ Trần ngồi ngoài hàng hiên lấn chiếm vỉa hè của người đi bộ. Khi li nâu nóng vừa được bưng ra thì một thiếu nữ từ bãi đậu xe lướt tới bên Trần. Nàng ngồi xuống chiếc ghế phía bên tay phải của chàng. áo choàng dạ của nàng cũng màu xám, còn mới. Mũ và khăn quàng màu tuyết trắng.

Nàng có mùi mưa mùi chanh tươi mùi hoa hồng khô chan chát. Em có mùi gì nào anh yêu? Nàng ghé gò má mát lạnh chạm vào mặt Trần. Chàng lại nhìn thấy thiếu phụ choàng khăn màu huyết dụ đi ngang qua bãi đậu xe. Nàng cầm hai ổ bánh mì kẹp. Em muốn giống cô bé đó sao? Cô bé ấy chết rồi còn gì! Nàng không chết, nàng chỉ bỏ đi thôi. Đi đâu? Ai mà biết được! Thế sao anh chàng ấy lại buộc bàn là vào chân? Buồn cười quá anh nhỉ!?! Đúng là rất kì cục và thê thảm nữa. Hắn đã vác cái bàn là đi cả một đoạn đường dài. Rồi buộc vào chân. Và chết. Này anh, hôm qua em nhìn thấy Caddy. Nàng đi dưới mưa. Và em rủ nàng đi ăn sủi cảo ở Đình Ngang, đi ăn bún ốc bà Sáu Mai Hắc Đế. Thế là nàng không thiết khóc nữa anh ạ. Hi hi...! Em đố anh Lara có mùi gì? Mùi sữa và mật ong. Tuyệt! Sao không cho em uống gì à? Trà đào nhé? Trà đào. Thiếu phụ mặc áo màu thiêu thân trùm khăn huyết dụ cũng thích uống trà đào.

Đến mùa đào, trên bàn ăn lúc nào cũng có một giỏ trái đào mơn mởn lông tơ. Trái đào, hoa đào, trà đào, màu hồng đào miên man trong tủ áo... Em thèm ăn đào quá anh ạ. Bây giờ mới đến mùa hoa đào thôi em yêu! Em ăn đào như Tôn Ngộ Khỉ trong vườn của Tây Vương Mẫu. Ăn đào nhiều chắc được trường sinh bất lão đấy anh nhỉ! Em đố anh Caddy có ăn đào không? Nàng ăn mận, anh chắc thế. Ha ha! Còn Lara thì sao? Nàng ăn dâu tây à? Dâu tây cũng hay nhưng anh thích nàng ăn anh đào hơn. Giống như trái sơ-ri chứ gì? Đừng nhắc đến sơ-ri! Anh ghét sơ-ri! Không thể lẫn sơ-ri và anh đào được. Được rồi! Thôi nào! Em không nhắc đến sơ-ri nữa. Sao áo anh lại đứt cúc thế này? Anh dứt ra đấy! Vì nó sắp đứt. Thế cái cúc đâu rồi? Trong túi áo. Để hôm sau em đến đơm lại cho anh. Không cần đâu, anh tự đơm được. Thế thì em sẽ làm gì? Em chẳng cần làm gì cả. Thật à? Này anh, em đang băn khoăn nghĩ ngợi một điều... Thôi nào em, mật ong thì không nên nghĩ ngợi nhiều! Anh ơi ở đây có một chùm chuông gió này... Nó đang reo đấy! Cái chuông này bằng đồng, tiếng nó trầm hơn. Còn những chiếc chuông thủy tinh thì cứ reo lanh ca lanh canh. Chuông thủy tinh tiếng sáng hơn em ạ! Đúng, nhưng em thích tiếng chuông đồng hơn!...

Buổi sớm hôm nay chùm chuông gió bằng đồng lại reo lên trên những khóm hoa hồng. Trên ban công của quán cafe ven hồ Trúc Bạch cũng có một chùm chuông y hệt như thế. Mình lại quên chùm chìa khóa ở xe rồi anh ơi! Kệ nó, không sao đâu em! Chùm chìa khóa to đùng như vậy làm sao mà mất được! Quán cafe này có nhiều loại trà pha bằng thảo dược, đường phèn và mật ong. Trần nhìn thấy chùm chuông gió buộc bằng một sợi chỉ bện màu đỏ rủ xuống trên đầu hai người. Màu đồng đã xỉn lại, có vẻ như han gỉ. Nhưng khi một làn gió nhẹ thổi vào từ mặt hồ buổi sớm nhòa sương chùm chuông lại rung lên những thanh âm run rẩy, xao xuyến lạ lùng.

Trần định chạm tay vào sợi chỉ bện màu đỏ của nó nhưng rồi chàng đã kìm lại được. Những đóa cúc hoa trắng ngần trôi dạt trong bình trà bằng thủy tinh trong suốt. Anh ạ, Bà Chúa Chè đã đi qua đây đấy! Sương mờ mịt giăng từ phía Quảng Bá, Nghi Tàm qua đường Cổ Ngư rồi lướt thướt bay sang bên này Trúc Bạch. Trần nhìn rõ những trái táo đỏ và mấy cái rễ sâm trắng trong bình trà cúc. Chàng khát. Món mì vằn thắn sáng nay rất ngon nhưng hình như chàng đã ăn hơi nhiều. Nàng chỉ thích ăn sủi cảo với lá hẹ, không ăn mì.

Em vừa đưa con vào lớp. Anh ăn sáng chưa? Không cần, anh chỉ muốn uống em thôi! Về nhà với anh đi! Bây giờ ư? Ngay bây giờ. Anh muốn! Nhưng 9 giờ em phải đón con. Trần chạm tay vào chùm chuông gió. Tiếng chuông làm chính chàng cũng phải giật mình. Trần lại ngửi thấy mùi xì gà Black Mild. Chàng không bao giờ hút xì gà. Chàng cũng không thích mùi thuốc lá. Chàng khát. Chàng nhìn thấy chai La Vie 500 ml trong giỏ xe của thiếu phụ trùm tấm khăn màu huyết dụ.

Hôm nay nàng đứng quay mặt ra đường. Trong tấm áo jacket màu đen, nàng giống như gấu mẹ vĩ đại. Đúng vào lúc 6 giờ kém 15 phút chiều. Nàng có không phải một mà là mười một ổ bánh mì trong giỏ xe. Mười ngàn mười một ổ. Những ổ bánh còn nóng hổi và giòn tan. Bánh mì không nhân mới ra lò hóa ra ngon hơn bánh kẹp rất nhiều. Vụn bánh rơi xuống vạt áo gió của Trần. Chàng chẳng buồn phủi. Thằng bé lại vồ lấy chai La Vie. Thiếu phụ nhét vào tay nó tập giấy lau miệng. Nó hôn phớt lên má nàng. Vẫy tay với người đàn ông mặc veston có chiếc cúc mới được đơm lại rồi biến vào sau cổng trường.

Cả hai đều gặm bánh mì. Túi bánh trên giỏ xe của thiếu phụ đã vơi đi một nửa. Em đói... Bánh rất ngon. Rất ngon, đúng không? Anh mang thêm mấy cái bánh về đi. Nhỡ đến đêm anh lại đói đấy. ừ, anh sẽ lấy hai cái nhé! Lấy thêm đi anh! Em mua nhiều mà. Mười ngàn được mười một cái. Quá rẻ, mà lại rất ngon đấy! Em biết là anh chỉ thích bánh không nhân thôi mà! Xem này, em có mùi bánh mì đấy! Anh muốn bóp cổ em! Thôi nào! Lại thế rồi! Anh về đi, em đợi con. Anh muốn bóp cổ em! Em làm anh hóa điên rồi! Không được nói đến mùi bánh mì mới ra lò nữa! Không được nói đến sơ-ri nữa! Nếu không anh sẽ giết em đấy! Sơ-ri thì có tội tình gì nào? Em thích ăn sơ-ri! Em thèm một bịch sơ-ri chấm với muối ớt! Anh điên rồi! Anh là đồ quỷ! Để cho em yên đi! Em ghét anh! Và em đã ngủ với một người khác! Và em muốn quên anh đi!...Em ghét anh!... Tha lỗi cho anh... Em đừng tự dằn vặt mình như thế nữa... Đừng nhắc tới chuyện ấy nữa... Anh xin em... Chúng mình sẽ quên chuyện ấy đi... Quên đi em!

Trần chợt nhìn thấy cái bật lửa. Ngọn lửa gas xanh lét. Trên bàn trong phòng ngủ của khách sạn An Bình cũng có một cái bật lửa gas. Nhưng không có mùi xì gà. Chỉ có mùi một loại thuốc lá giả xì gà. Và có rất nhiều sơ-ri. Bịch sơ-ri xanh xanh đỏ đỏ chua chua ngọt ngọt với muối ớt cay cay!

Oh! Something happened to my heart! Em lạnh... Em thấy choáng váng quá! Em sợ lắm... Đừng sợ! Em ngủ đi một lát. Và anh sẽ nấu cho em một nồi súp nóng. Có xương hầm và khoai sọ Lệ Bồ. Rồi em sẽ hết lạnh mà! Anh đã đun nước nóng rồi. Em rửa mặt, ngâm chân vào nước nóng là đỡ đau đầu ngay. Được rồi... Em nằm yên nhé... Anh sẽ mang súp lên ngay bây giờ... Em muốn uống trà với mật ong... ừ... Anh sẽ pha trà ngay cho em... Đừng khóc nữa em! Đừng khóc... Ngày mai anh sẽ mua sơ-ri cho em mà! Sẽ uống cả rượu sơ-ri nữa... Đừng khóc! Sơ-ri cũng giống anh đào mà! Rồi Tết này anh sẽ đi cùng em lên đường hoa mua cành đào cho em... Đào phai... Sẽ có đào phai... Chân em lạnh toát rồi đây này... Để anh ủ cho em... Có mùi gì thế anh? Mùi gì cháy? Ôi em yêu! Nồi súp đã bị cháy mất rồi! Ha ha! Thế là chúng mình không thể cùng gặm chung một khúc xương được nữa! Chỉ bị cháy ở bên dưới thôi em yêu! Em sẽ ăn nước và khoai hầm. Còn anh gặm khúc xương cháy này vậy? Nóng quá má ơi! Anh gặm khúc xương đó thật sao? Nó cháy rồi mà? Không sao em yêu! Anh giống một con chó già quá! Ha ha! Anh loay hoay với khúc xương và anh muốn đập vỡ nó ra! Anh đã mất hai cái răng cửa rồi đấy anh yêu! Không sao! Anh còn đủ sức nghiền nát em! Thôi đi! Món súp của anh làm em bỏng mồm rồi đây này! Tốt quá! Mấy giờ rồi anh? 6 giờ kém 15 phút...

Mẹ Trần đã tắt thở lúc 6 h kém 15 phút chiều. Đúng vào lúc đó Trần cảm thấy cơn đói đang cào cấu chàng. Chàng thèm một ổ bánh mì nóng. Nhưng chàng lại nhìn thấy máu. Đầu tiên là máu màu hoa đào rồi đến máu màu phù dung màu cánh sen máu màu sơ ri máu màu mận chín cuối cùng là máu màu huyết dụ... Máu chảy từ vạt dưới tấm áo choàng màu thiêu thân tràn qua vỉa hè có những mẩu xì gà Black Mild những mẩu bánh mì vụn những tờ giấy lau miệng hiệu Pulppy... Máu chảy qua cánh cửa sắt han gỉ có chùm chìa khóa mười một chiếc vẫn bám chắc vào ổ khóa...

Máu chảy qua gian bếp có nồi xương hầm khoai cháy dở... Máu ướt đẫm tấm drap màu lục nhạt missing you and remembering those times we were together trên lá dương xỉ. Tấm khăn màu huyết dụ vắt lửng lơ bên cái veston đứt cúc trên cùng. Lần cuối cùng chiếc cúc ấy bị đứt hẳn ra và không đơm lại nữa cách đây đã lâu rồi. Cái túi xách bằng vải thô giả thổ cẩm được treo đúng chỗ của nó: trên tay nắm của cánh cửa tủ áo có những manh áo dài tơ tằm màu hoa đào màu phù dung màu cánh sen màu xanh đen... Trần chạm tay vào sợi chỉ bện màu đỏ. Chùm chuông gió lại đung đưa ngoài cửa sổ trên mấy khóm hồng...

* Những ngày cuối tháng Giêng năm 2006
 

CongVoi

Super V.I.P
Hành trình
Nguyễn Nguyên Phước


Đoàn chúng tôi có tất cả bốn người, ngoài tôi ra, còn có một ông già, một chàng thanh niên ngoài hai mươi và một đứa trẻ lên mười. Chắc chắn họ có mối quan hệ huyết thống vì nét mặt mỗi người đều phảng phất hình ảnh của hai người còn lại, cứ như thể là khuôn mặt của cùng một con người ở những thời điểm khác nhau trong cuộc đời. Xét về tuổi tác, chàng thanh niên quá trẻ để có thể là cha đứa trẻ song lại quá già để làm anh trai nó.

Còn ông già, cũng giống như những người già khác, rất khó đoán tuổi nên cũng khó có thể nói rằng ông ta là ông hay là cụ của đứa trẻ và đương nhiên càng khó hơn nữa để có thể suy đoán ra mối quan hệ giữa ông già và chàng thanh niên. Người ta chở chúng tôi đến bờ sông, nơi lau sậy mọc um tùm. Thực ra gọi là bờ sông cũng không phải, từ chỗ neo thuyền ra đến mặt sông lớn là một đoạn con lạch khá dài nhưng bề rộng của nó chỉ vừa đủ cho một con thuyền. Người hướng dẫn viên du lịch nói rằng đây là con đường duy nhất để có thể đi ra sông.

Ba người đồng hành của tôi lần lượt bước lên thuyền, đầu tiên là đứa trẻ, theo sau là chàng thanh niên, cuối cùng là ông già. Họ ngồi cạnh nhau, đối diện với tôi, vẻ mặt nghiêm nghị và tư thế ngồi ngay ngắn của họ giống hệt như ba người học sinh ngồi nghe cô giáo giảng bài. Người hướng dẫn viên du lịch nói rằng đây là một chuyến đi quan trọng. Tôi hỏi anh ta từ trước đến giờ anh đã đi bao nhiêu chuyến đi như thế này rồi. Anh ta đáp: “Tôi không nhớ được. Có lẽ là khoảng hơn một trăm chuyến đi như thế này. Đối với tôi, những chuyến đi luôn quan trọng dù đôi khi nó chẳng có mục đích gì.”

Khi chúng tôi xuống thuyền, trời bắt đầu lờ mờ tối. Người hướng dẫn viên tháo sợi dây chão cột thuyền, anh ta đạp mạnh vào kè đá khiến con thuyền chòng chành rồi từ từ chuyển động ra xa. Sau một hồi loay hoay, cuối cùng anh ta cũng nổ được máy. Trời tối nhưng nhờ có ánh trăng, tôi vẫn có thể nhìn rõ khuôn mặt của từng người. Gió thổi rất mạnh và tôi cảm thấy lạnh. Người hướng dẫn viên giải thích cho chúng tôi rằng ban đầu bao giờ cũng gặp khó khăn nhưng khi chúng ta đã quen rồi thì mọi sự sẽ dễ dàng. Chắc anh ta nghĩ rằng chúng tôi cảm thấy khó ở do con thuyền tròng trành. Ba người đồng hành của tôi vẫn im lặng. Nhìn vào khuôn mặt họ, cái vẻ trầm tư của họ, tôi không thể đoán được họ đang nghĩ gì. Liệu họ có phải là họ hàng của nhau không?

Người hướng dẫn viên du lịch chỉ về phía sau lưng tôi và nói: “Anh có nhìn thấy cái cột kia không? Chúng ta sẽ đến đó. Chúng ta sẽ phải hướng mũi thuyền chéo chiều dòng nước. Vì vận tốc của dòng nước là rất lớn, lớn hơn rất nhiều vận tốc của con thuyền nên anh sẽ có cảm giác chúng ta đang ngược sông nhưng thực ra không phải như vậy. Chúng ta đang vượt sông. Cái cột kia nhìn có vẻ không xa lắm. Và thực tế thì nó không xa. Nhưng để thuyền cập bến đúng chỗ, chúng ta phải mất rất nhiều thời gian. Rồi anh sẽ thấy. Có những lúc anh sẽ có cảm giác chúng ta bị dòng nước cuốn đi và chúng ta hoàn toàn không làm chủ được con thuyền. Những lúc như vậy, chỉ cần một khoảnh khắc nào đó, anh lơ là không nghĩ đến cái cột kia là chúng ta lập tức sẽ bị cuốn trôi theo dòng nước. Và khi đó chúng ta sẽ hoàn toàn không biết chúng ta sẽ đi về đâu.”

“Vậy đã khi nào anh bị cuốn đi như vậy chưa?”

“Luôn luôn. Thực ra chưa một lần nào tôi cập bến đúng cái cột đó cả. Lần nào tôi cũng bị mất phương hướng.”

“Vậy anh sẽ làm gì nếu anh không tìm thấy cái cột?”

“Thì tôi phải chấp nhận thôi. Những người khách trước cũng phải chấp nhận điều đó. Họ cập bến. Có vậy thôi. Nhưng họ không tìm thấy cái cột.”

“Vậy cái cột đó liệu có tồn tại không? Đã có ai chạm tay vào nó chưa?”

“Chưa. Nhà tôi làm nghề này đã ba đời nay. Tôi chỉ nghe ông nội tôi kể lại rằng trước kia đã có một người đã từng chạm tay vào cái cột. Nhưng đó gần như là truyền thuyết vậy. Chẳng ai biết được người đó tên là gì. Họ chỉ đồn đại thế thôi.”

“Vậy biết đâu nó chỉ là một ảo ảnh.”

“Tôi cũng không biết. Cũng có lúc tôi từng nghi ngờ như anh. Biết đâu đó chỉ là một ảo ảnh. Nhưng bây giờ thì tôi tin, tôi tin rằng nó không phải là một ảo ảnh. Chắc chắn cái cột đó tồn tại, vấn đề là ở chỗ chúng ta có chứng minh được sự tồn tại của nó hay không thôi. Đã rất nhiều lần tôi tiến gần sát đến cái cột. Tất nhiên chỉ là cảm giác thôi, còn gần bao nhiêu thì tôi không biết. Chỉ cảm giác là rất gần. Nhưng rồi đột nhiên tôi mất tập trung, thế là con thuyền cuốn theo dòng nước. Thậm chí nó đi xa đến hàng cây số. Anh biết đấy, dòng nước chảy cực mạnh.”

“Nhưng nếu thế tại sao khi lên bờ chúng ta không tìm kiếm nó. Trên bờ chúng ta đi bộ và không còn chịu ảnh hưởng bởi bất kỳ dòng nước nào.”

“Mọi chuyện không đơn giản như vậy, anh bạn ạ. Nơi duy nhất mà từ đó chúng ta có thể nhìn thấy cái cột là trên dòng sông này. Nếu anh lên bờ, anh sẽ chẳng nhìn thấy cái gì. Hơn nữa có rất nhiêu trở ngại. Ông nội tôi nói rằng cái cột có lẽ bị chắn bởi một dãy núi và người ta không có cách nào tiếp cận được nó bằng đường bộ.”

Thuyền chúng tôi đi được một đoạn. Đúng như người hướng dẫn viên nói, nước sông chảy rất xiết. Chúng tôi tiến rất chậm. Người hướng dẫn viên cứ phải loay hoay chỉnh bánh lái. Có vẻ đây là một nhiệm vụ khó khăn đối với anh ta. Cứ xem cách anh ta loay hoay với cái bánh lái thì có thể đoán rằng kinh nghiệm trong những chuyến đi trước hoàn toàn không có ích gì. Có thể mỗi chuyến đi chỉ là một kinh nghiệm duy nhất, thiếu phổ quát để từ đó anh ta có thể rút kinh nghiệm cho những chuyến đi sau.

Anh ta cứ loay hoay như vậy suốt một tiếng đồng hồ. Con thuyền có vẻ đi đúng hướng. Người hướng dẫn viên tỏ ra hài lòng, mặc dù nét mặt anh ta vẫn còn đôi chút căng thẳng. Tôi nhìn ba người đồng hành. Họ vẫn im lặng.

“Tại sao những người này luôn im lặng nhỉ?” Tôi thì thầm hỏi người hướng dẫn viên.

“À, họ bị câm điếc. Cả ba người. Họ chẳng hiểu chúng ta nói gì đâu. Anh cứ việc nói to lên.”

“Họ là họ hàng à?”

“Không. Họ đi tìm người thân. Ông già đi tìm con trai và cháu nội. Cậu thanh niên đi tìm bố và con trai. Còn đứa bé, tất nhiên, đi tìm ông nội và bố. Nhưng họ chẳng có một mối liên hệ máu mủ nào cả dù, như anh thấy đấy, trông họ rất giống nhau. Họ trở thành những người đồng hành. Ba người lúc nào cũng đi cùng nhau. Họ gần như trở thành một khối không thể tách rời nhưng đáng tiếc họ lại không phải là người mà họ cần tìm. Đã gần một năm nay rồi, ngày nào họ cũng lên thuyền cùng tôi. Chắc họ hy vọng khi đến được cái cột bên kia bờ sông, họ sẽ tìm thấy người họ cần tìm. Tôi thì chẳng tin vào chuyện đó nhưng cũng không muốn làm cho họ tuyệt vọng.”

“Sao anh biết họ đi tìm người thân?”

“À thì người ta đồn vậy. Tôi cũng chẳng biết nhưng tôi nghĩ là đúng. Họ đang đi tìm người thân. Anh cứ nhìn vào mắt họ thì biết. Họ luôn ở tư thế đang đi tìm kiếm cái gì đó. Cái gì đó là gì nếu không phải là người thân.”

“Vậy còn cái cột? Sao anh biết họ cũng cần cập bến vào nơi có cái cột.”

“Cái này thì tôi đoán thôi. Người ta lên thuyền làm gì nếu như không để cập bến đúng vào nơi cần cập bến. Mà họ cứ hết ngày này qua ngày khác lên thuyền cùng tôi và tất nhiên chẳng bao giờ cập bến vào nơi có cái cột. Nếu chúng tôi cập bến đúng nơi cần phải đến thì có lẽ họ đã không còn lên tàu nữa.”

Ba người đồng hành dường như cũng hiểu được phần nào câu chuyện chúng tôi đang nói với nhau. Nét mặt của họ dần dần chuyển sang giận dữ. Có thể họ không muốn người khác soi mói chuyện riêng tư chăng? Hay họ đang che giấu sự nỗi sợ hãi rằng con thuyền đang đi không đúng hướng.

Tôi quay lại nhìn cái cột. Dưới ánh sáng trăng mờ mờ, nó hoàn toàn chẳng có gì đặc biệt. Tại sao người ta lại cố gắng phải cập bến đúng nơi đó? Liệu nó có khác những nơi khác không? Nếu một ngày kia họ phát hiện ra cái cột cũng chẳng có gì đặc biệt thì liệu họ có còn hứng thú cho một chuyến đi như vậy nữa hay không?

Đột nhiên con thuyền khựng lại và quay vòng tròn. Lúc đầu tôi nghĩ rằng có lẽ chúng tôi đã lọt vào một vòng xoáy. Nhưng không phải chỉ có thế. Hình như có rất nhiều vòng xoáy nối tiếp nhau. Chúng tôi vừa thoát khỏi vòng xoáy này thì lại bị vòng xoáy khác tấn công. Cứ như vậy khoảng nửa tiếng đồng hồ. Người hướng dẫn viên ra sức thoát ra khỏi những vòng xoáy. Cuối cùng thì anh ta cũng thành công. Nhưng khi mọi việc kết thúc thì anh ta bỗng nhiên mệt mỏi và buông xuôi bánh lái, rồi gục đầu xuống đầy thất vọng. Khi anh ta ngẩng mặt lên, khuôn mặt thẫn thờ như hóa dại.

“Thế là hết. Chẳng thể thay đổi được nữa rồi.” Anh ta rầu rĩ nói.

“Tại sao anh lại chắc chắn như vậy chứ?”

“Bố tôi dạy tôi như thế. Hầu như chẳng có cái gì sai. Mọi cố gắng bây giờ chỉ là vô ích. Tôi mệt quá rồi.”

“Nhưng chúng ta vẫn còn nhìn thấy cái cột cơ mà. Nếu cố gắng, biết đâu chúng ta lại tới đích.”

“Vô ích thôi. Cái cột bây giờ chỉ còn là ảo ảnh.”

“Thế cách đây một tiếng đồng hồ thì nó không phải ảo ảnh sao?”

“Tất nhiên là không. Khi đó nó là thực.”

“Sao anh biết?”

“Thì người ta bảo tôi thế. Mà sao anh hỏi nhiều thế?”

“Nhưng anh đã bao giờ thực sự trông thấy cái cột đâu?”

“Anh đừng làm tôi bực mình với những câu hỏi ngớ ngẩn nữa.”

“Để tôi thử xem sao?”

“Anh cứ thử đi. Đằng nào cũng thế rồi.”

Tôi cầm bánh lái, cố gẳng bẻ nó theo hướng cái cột nhưng có vẻ vô ích. Dòng nước quá mạnh.

“Khỉ thật!” Tôi nói. “Chúng ta không thể điều khiển được con thuyền.”

“Tôi đã bảo rồi mà. Giờ thì chúng ta chẳng thể làm gì được hết. Mà sao tôi chán cái bọn câm điếc kia thế không biết.”

“Anh nói gì?”

“Lũ câm điếc. Tôi chán chúng nó lắm rồi. Toàn mang rủi ro đến cho tôi. Suốt năm nay, tôi toàn gặp vận xui.”

“Vận xui gì vậy?”

“Đầu tiên bố tôi chết. Trước khi nhắm mắt, ông ấy dặn tôi không được bỏ nghề này. Sau đó thì vợ tôi bỏ đi. Cô ấy không chịu được nữa. Cô ấy bảo cô ấy không chịu được người chồng làm hướng dẫn viên du lịch, suốt ngày đưa khách đến một nơi chẳng bao giờ tới được. Tôi còn biết làm gì nữa? Nhà tôi ba đời làm nghề này. Tôi bỏ làm sao được.”

Khuôn mặt anh ta tức tưởi, gần như sắp khóc. Ba người câm điếc dường như cũng hiểu chúng tôi đang nói về họ. Họ càng trở nên giận dữ. Tất nhiên họ chẳng thể nói gì, chẳng thể biểu hiện gì ngoài sự tức giận trên khuôn mặt. Khi tức giận khuôn mặt họ gần như méo mó.

Con thuyền cứ thế lao đi vun vút theo dòng nước. Tôi nhìn về phía cái mà theo như lời người hướng dẫn viên du lịch lúc này chỉ còn là hư ảnh của cái cột. Thực sự mà nói, theo tầm ước lượng của tôi nó không cách xa bao nhiêu so với ban đầu khi chúng tôi bước lên thuyền nhưng không hiểu sao bây giờ nó lại gợi cho tôi cái cảm giác người hướng dẫn viên du lịch kia mãi mãi sẽ chẳng bao giờ tìm thấy cái cột. Chúng tôi cập bến vào một nơi lạ hoắc.

Khi tôi bước lên bờ, trời bắt đầu hửng sáng. Tôi quay mặt lại, trong phút chốc, con thuyền, người hướng dẫn viên du lịch, ông già, chàng thanh niên và đứa trẻ đã biến mất. Trên mặt sông chỉ còn là một vệt sẫm màu, dưới ánh sáng của buổi sớm mai, trông lạnh lẽo.
_________________
 

CongVoi

Super V.I.P
Nụ Hôn và Li Dị - L.Palashti (Hungary)


Họ vào quán cà phê, đưa mắt nhìn quanh, rồi người chồng cất tiếng:

- Ở đây không thể nói chuyện được?

Anh ra hiệu cho vợ và họ tiến về phía cửa. Ra đến ngoài đường, người vợ bực bội nói:

- Thế anh tưởng giữa giờ cao điểm này mà ở quán "Kikirich" vẫn còn chỗ trống được à?

Người chồng không đáp. Trong giây lát, họ lưỡng lự đứng trên vỉa hè, sau đó, người vợ lại lên tiếng:

- Thôi chúng ta đến nhà hàng "Zeld" vậy. Có thể ở đó chúng ta sẽ kiếm được một ngăn còn trống.

Nhưng nhà hàng "Zeld" đông nghịt khách. Ngăn nào cũng đã đủ bốn người ngồi, có khi tới sáu người. Chủ nhà hàng dẫn họ tới một ngăn:

- Ở đây mới có ba người, hai anh chị có thể ngồi vào những chỗ còn trống.

Một ông khách ngồi trong đó kiên quyết phản đối:

- Chúng tôi đang chờ mấy người bạn!

Chủ nhà hàng nhã nhặn, nhưng kiên quyết đáp:

- Rất tiếc chúng tôi phải sắp xếp chỗ ngồi cho khách. Khi nào bạn các ông đến chúng tôi sẽ thu xếp chỗ cho họ.

Nhưng cặp vợ chồng cũng không ngồi trong ngăn đó. Họ chờ. Lát sau mới có một ngăn khách vừa ra hết, họ liền vào luôn đó.

- Bây giờ thì chúng ta có thể yên tâm bàn bạc chuyện ly dị được rồi, - người chồng gọi mấy món ăn, rồi nói.

- Anh lầm to? Sẽ lại có vài người khách được xếp vào ngồi đấy. Và họ sẽ giỏng tai lên nghe tại sao tính nết chúng ta không hợp nhau, tại sao chúng ta lại muốn ly dị và chúng ta đặt cho nhau những điều kiện gì. Họ sẽ tha hồ thỏa mãn trí tò mò của họ!

Thôi được rồi, được rồi? Chúng ta sẽ bảo rằng những chỗ này đã có người ngồi

- Ăn thua gì? Anh không thấy các nhân viên phục vụ nhét khách vào chật ních các ngăn kia à? Dù khách ở trong đó có bảo các chỗ đều đã có người nguôi.

- Vậy biết làm sao bây giờ?

- Anh nhanh trí gớm nhỉ? - người vợ mỉa mai nói - Y hệt hôm ở Berega. Hôm ấy lần đầu tiên em cảm thấy thất vọng về anh.

- Thôi đi, đừng nói nữa - mặt người chồng sa sầm.

- Này, em đã nghĩ ra một cách. Chúng ta hãy làm ra vẻ như chúng ta đang si cuồng yêu nhau. Anh hiểu không?

Thấy một cặp trai gái yêu nhau sẽ không ai quấy rầy đâu. Anh giả vờ được chứ?

- Anh sê cố thử.

- Vậy chúng ta bắt đầu nhé! Phòng ngủ sẽ là của em, phòng ăn sẽ thuộc về anh.

- Sao lại thế! Phòng ngủ giá trị gấp đôi phòng ăn

- Thì anh lấy thêm tấm thảm nữa vậy.

- Cái tấm thảm đã sờn rách ấy à?

- Cứ thế nay chúng ta không thỏa thuận được với nhau đâu. Anh bao giờ cũng tham lam!

- Anh mà tham? Nói thế mà nghe được! Cẩn thận cậu phục vụ đang dân mấy người khách mới đến kìa!

Người vợ âu yếm ngả vào chồng, còn anh thì vuốt ve tay vợ.

- Thôi, bọn ta đừng vào đây - một trong những người khách vừa tới nói.

Bọn họ đi tiếp tìm chỗ ngồi khác.

- Thế nào? - người chồng lại cất tiếng.

- Phòng ngủ thuộc về em. Anh có thể lấy cây đèn đứng

- Cả chiếc TV nữa!

- Không được! Anh lại còn muốn cả chiếc TV! Hôn em mau lên! Có người đến kìa!

Họ hôn nhau và lại giữ được không để ai vào ngồi gần.

- Rõ ràng em đòi phòng ngủ là do bà mẹ quý báu của em xui.

- Dù có đúng thế chăng nữa thì đã sao? - giọng người vợ có vẻ tức tối. Mẹ có quyền góp ý kiến.

- Tiếc rằng mẹ em lại can thiệp quá nhiều vào đời sống gia đình của chúng ta!

Vừa nói, anh vừa hôn má vợ, còn chị đắm đuối nhìn vào mắt anh.

Mẹo của họ lại thành công. Trong một lúc họ khe khẽ cãi nhau gay gắt, xen giữa những lời xúc phạm là những cái ôm và những nụ hôn. Cuối cùng họ thỏa thuận sẽ chia đôi cả phòng ngủ, cả phòng ăn. Nhưng khi nói đến cái tủ ly, họ lại không thể nào nhất trí với nhau.

- Em định cướp sạch của anh, - người chồng rít lên, mặt đỏ như con gà tây, còn người vợ đáp lại bằng cách ôm lấy cổ chồng hôn vào môi anh.

Ông chủ nhà hàng giận dữ nhìn họ và dẫn mấy người khách ra chỗ khác.

Nụ hôn của vợ làm người chồng hơi bối rối bởi trong đó anh không cảm thấy sự bắt buộc. Nụ hôn ấy là thực sự. Nụ hôn như thế anh vẫn quen "nhận" và "trả" trong những năm đầu tiên hai người chung sống.

Người vợ ngượng nghịu nhìn tránh đi. Chị cũng thấy rõ mặc dù chị hôn là tại ông chủ nhà hàng xuất hiện, nhưng nụ hôn của chị không hoàn toàn giả tạo. Ông chủ nhà hàng đã dẫn đám thực khách đi rồi, mà môi chị vẫn chưa rời khỏi môi anh.

- Chúng ta đang bàn dở đến cái tủ ly, - người chồng lên tiếng sau giây lát lúng túng và một phút im lặng. - Thôi được em lấy cái tủ ấy cùng với tất cả những bình những lọ và các thứ lặt vặt bằng sứ đi.

- Không, em không thể nhận như vậy. Anh giữ lấy thì hơn.

- Không đời nào? Làm sao em có thể chia tay với bức tượng cô vũ nữ ba lê bằng sứ? Hoặc với chiếc bình đỏ? Lại còn cô bé đang khóc nữa? Em vẫn yêu quý những cái đó lắm!

- Thế anh không yêu quý sao?

- Nói chung thì cũng có.

- Còn bức tranh Ripple-ronai? Chúng ta chưa nói đến nó. Chúng ta đã cùng ngắm nó gần như hàng ngày

- Thế bức "Phong cảnh Tatry"?

- Đã bao lần chúng ta mơ ước đi du lịch tới đó!

- Lẽ ra chúng ta phải đi mới đúng! Nếu thế, có lẽ...

Người vợ tiếp lời:

- Nếu thế, có lẽ bây giờ chúng ta đây không phải ngồi bàn bạc về các điều kiện ly dị.

Hai người ngồi im lặng. Sự xuất hiện của ông chủ nhà hàng lại đẩy họ vào vòng tay nhau. Khi họ buông nhau ra, người chồng khẽ nói:

- Sáu tuần lễ nữa sẽ có một chuyến du lịch. Tám ngày ở Tatry. Em... em có muốn đi với anh không?

Người vợ đưa mắt nhìn xung quanh và đáp:

- Bây giờ đang không có ai ở gần đây cả. Hôn em mau lên!
_________________
Quy Ẩn Luyện Kiếm
 

CongVoi

Super V.I.P
HẠNH PHÚC MƠ HỒ

Thế rồi bất ngờ, chiều xuống.
Hoàng hôn buông chùng thành phố và gió lồng lộng thổi xua đi cơn nắng hè oi ả. Huệ đứng bên cửa sổ nhìn xuống dòng xe cộ tấp nập nối đuôi nhau kìn kìn thành từng hàng một, dài lê thê, cảm tưởng như không có điểm kết thúc, nếu không có những ngã tư đèn xanh đèn đỏ cắt ngang. Sau lưng cô, đôi mắt Quang mở to dõi theo, đăm chiêu một cách khó hiểu. "Anh suy nghĩ kỹ rồi. Có lẽ em nên nghỉ việc ở công ty". "Nghỉ việc?". Huệ thốt lên. Câu nói của Quang khiến cô bất ngờ. Cô tiến đến gần Quang. Anh xoay người và thật nhẹ nhàng nhấc bổng cô lên, kéo cô vào lòng mình ghì chặt: "Bình tĩnh nào, cô bé, anh sẽ lo cho em. Em biết đấy, công ty đã bắt đầu có tiếng xì xào, tay lái xe vừa nói cho anh hay". "Nhưng em... không muốn thay đổi...". "Anh hiểu, anh hiểu em". Quang cắt ngang. "Rồi mọi chuyện sẽ đâu vào đấy. Em có nghe lời anh không nào". Quang hôn cô. Dưới làn môi mềm mại và ẩm ướt, Huệ hơi ớn lạnh bởi hàng ria mép thô ráp cọ cọ vào môi, cảm giác muốn tìm quên đi những lo âu chồng chéo trỗi dậy xen lẫn niềm hạnh phúc dịu ngọt nhưng mong manh yếu đuối.

Huệ lặng lẽ thu xếp bàn làm việc trong một ngày mưa. Quá ít người để ý đến ngoài chị văn thư có dáng người quá khổ nhưng lại thích mặc những tấm áo có hoa văn sặc sỡ. Chị tên Hoa. Chị Hoa chưa lập gia đình dù đã gần bốn mươi, khuôn mặt chị tròn vành vạnh nhưng gò má hơi cao, nhô lên và luôn đỏ ửng khiến cho khuôn mặt ấy trở nên mất cân đối. Chị ngồi nhiều nhưng hễ có ai đi qua cửa phòng hành chính là miệng chị lại hoạt động tối đa công suất. Người lạ thì chào hỏi, người quen thì níu tay níu chân, người thân thiện một chút thì chị hăm hở kê thêm một cái ghế kế bên, cốt để hầu chuyện chị. Nhiều người từ chối không đành, cực chẳng đã gật gù cho xong. Nhưng nhiều người vì vội vã và ghét buôn dưa lê thì đây đẩy chối từ, thậm chí xua tay từ xa khi nhìn thấy chị. Mỗi lúc như vậy chị Hoa buồn lắm, mặt chị thộn ra, tay khư khư nắm chặt con dấu đỏ loe loét trên bàn làm việc. Mỗi lần chứng kiến chị như thế, Huệ phải cố gắng lắm mới không phá lên cười.

Ấy vậy mà chị Hoa lại là người thương Huệ nhất. Có nói xấu ai, đơm đặt điều này điều kia, thêm mắm thêm muối cho ai, chị cũng chừa Huệ ra. Người nào chỉ cần đụng đến tên Huệ, là chị gạt phăng đi. Chị luôn mồm nói: "Tội nghiệp con bé, gầy gò yếu ớt một thân một mình bơ vơ ở cái đất Sài Gòn này". Có gì ăn chị cũng để phần cho Huệ. Nhưng không hiểu sao Huệ luôn e ngại và giữ một khoảng cách nhất định với chị. Nhiều lần chị mời Huệ đến nhà chơi Huệ luôn tìm cách từ chối. Với lại Quang đã dặn cô, không nên thân thiết với ai quá mức ở công ty, hết sức tránh xa điều qua tiếng lại. Nên Huệ cứ vậy mà lặng lẽ sáng đi chiều về cặm cụi. Như một con ong chăm chỉ. Chính vì thế chị Hoa càng thương Huệ hơn.

Khi đã thu dọn xong giấy tờ, trút bỏ những bông cúc màu tím khỏi chiếc bình màu xanh lục, Huệ nhìn lại căn phòng thân thuộc. Cô không tưởng tượng nổi có lúc mình phải rời xa nó. Từ ngày mai, cô sẽ không còn ngồi đây, bên cái máy tính cũ kỹ gõ những văn bản dài chi chít số liệu và thi thoảng nhìn Quang đi lướt qua ô cửa sổ cạnh những nhân viên mẫn cán của anh. Cô sẽ không còn được nghe những bản nhạc không lời mà chị Hoa vẫn mở lúc ban trưa khi cả hai cắm đầu bên hộp cơm nguội ngắt. Thế là hết.

"Chị ơi, ngày mai, em nghỉ việc...". "Sao thế em?". Chị Hoa ngỡ ngàng, xoay nghiêng tấm thân phục phịch khiến chiếc ghế bất giác kêu kèn kẹt. "Vâng, em xin vào một công ty khác có nhiều cơ hội hơn...". Huệ lặp lại như một cái máy những lời Quang dặn để trả lời ai hỏi vì sao cô nghỉ việc. "Em nói dối". Chị Hoa đứng phắt dậy. Huệ giật thót mình sợ hãi khi nhìn gò má chị trở nên đỏ ửng lên mỗi khi chị xúc động hay tức giận. "Ai đã làm cho em phải rời khỏi công ty? Có phải cái lũ độc ác, ngậm máu phun người ấy đã nói gì để em phải nghỉ? Mấy con chồng chán bên phòng kế toán hay kế hoạch? Em thử nói cho chị biết, chị sẽ...". "Không phải chị ơi, không phải thế thật mà". Huệ nắm lấy tay chị Hoa tha thiết van lơn. Chị Hoa nhìn thẳng vào mắt Huệ: "Chị biết là em trong sáng, vô tội. Ông Quang ông ấy giúp em vô tư, không tính toán, nhưng cái bọn khốn kia nó ghen ăn tức ở, nó phá em... Tội nghiệp...". Huệ đứng chôn chân, cảm giác ngượng ngùng lan tỏa sâu vào từng tế bào, từng chân tơ kẽ tóc khiến cô không đứng được, khoác túi xách lên vai, đi như chạy qua hành lang vắng vẻ, nơi nhìn qua bức tường nhiều lỗ hổng sẽ thấy những thân cây thông thẳng đứng lá xanh rì um tùm và buồn bã.Mẹ gọi điện cho Huệ vào lúc chạng vạng tối, khi cô ngẩn ngơ ở chợ giữa những tiếng rao trở nên lạc loài vì mớ xúc cảm hỗn độn trĩu nặng lèn chặt tim cô: "Mẹ đây con. Con có khỏe không? Công việc thế nào?". "Vâng, con khỏe, tất cả vẫn bình thường. Mẹ ạ. Tết này con sẽ ra Bắc". Huệ trả lời mẹ bằng một giọng nghèn nghẹn. "Con đã đi thăm cô Nhung chưa? Con vào đó mấy năm rồi mà không lên thăm cô sao?". "Vâng, con sẽ thăm cô... Vâng, con sẽ gọi lại cho mẹ sau". Huệ lúng búng, cô lên xe phóng thẳng về căn hộ tầng ba nơi khu chung cư kín đáo mà Quang đã thuê cho cô. Cô không nghĩ rằng hiện tại mình có thể nuốt được bất cứ thứ gì vào bụng.

Huệ mở mắt với cảm giác cồn cào gan ruột khi vừa trải qua cơn mộng mị. Cô nhỏm dậy nhìn đồng hồ. Mới sáu giờ tối. Theo thói quen, cô với lấy điện thoại kiểm tra tin nhắn. Có hai tin nhắn liên tiếp của Quang: "Em yêu, anh không qua với em được. Cô ấy bệnh nặng. Có lẽ cô ấy chưa tĩnh tâm được với đề nghị của anh...". Huệ chóng mặt, tưởng tượng trước mắt cô sẽ là chuỗi ngày dài lê thê tẻ ngắt đang đón đợi. Cô gác tay lên trán. Tại sao thời điểm này mình không đi đâu xa một chuyến. Ban Mê Thuột chẳng hạn. Mẹ cô đã chẳng thúc giục cô đi Ban Mê Thuột thăm cô Nhung hay sao? Trong phút chốc Huệ trở nên hăm hở. Cô thu xếp hành lý gọn nhẹ vào chiếc va ly nhỏ. Không váy đầm son phấn cầu kỳ vì chuyến đi này chỉ có mình cô. Cô gọi điện cho hãng xe tư nhân. Họ nói đúng tám giờ sẽ đến tận nhà đón cô. Huệ tắt điện và thắp một ngọn nến nhỏ. Ngọn nến hồng bừng sáng khiến căn phòng của cô trở nên ấm áp hơn. Cô gọi điện cho Quang. Cô nghe tiếng anh ấp úng bên kia đầu dây lẫn tiếng cười nói lanh lảnh của một bé gái có lẽ là con gái anh. Rồi cô thấy vọng bên tai chỉ còn tiếng tút tút. Anh đã tắt máy. Cô trân trân nhìn chiếc điện thoại, tưởng tượng cảnh anh đang chạy vào một xó xỉnh an toàn nào đó trong căn nhà rộng thênh thang của mình để gọi lại cho cô. Đúng như cô dự đoán, anh đã gọi lại ngay: "Anh đây, có chuyện gì không em?". "Vâng, em gọi điện báo cho anh biết chút nữa em đi Ban Mê Thuột". "Đi đâu cơ? Trời ơi, Ban Mê Thuột hả. Mà sao lại gấp gáp quá vậy em?". "Không sao. Em muốn đi bây giờ". "Thôi được". Giọng Quang chùng xuống. "Em hãy lên đó đặt phòng cho hai người, anh sẽ cố gắng thu xếp nhanh nhanh ổn thỏa mọi việc để lên đó với em và đưa em về". Huệ im lặng. Cô không biết nói gì hơn. Sự chu đáo của Quang khiến cô xúc động. Cô vén rèm cửa và nhìn lên nền trời xanh thăm thẳm. Trong muôn vàn tinh tú lấp lánh kia, đâu là vì sao cho riêng cô? Một cảm giác ngọt ngào dâng lên. Những dày vò mặc cảm về tội lỗi lắng chìm và tan biến như làn khói thoảng qua, chỉ còn lại rung động ngất ngây từ trái tim mãnh liệt và non trẻ cần được yêu thương che chở.

Suốt quãng đường đi Huệ đã ngủ rất nhiều trên chiếc xe êm ru, nên khi đặt chân đến khách sạn vào lúc tờ mờ sáng, Huệ đã mong thời gian qua thật nhanh để có thể đến ngay nhà cô. Cô Nhung là con cùng cha khác mẹ với bố của Huệ. Thời trẻ cô có tiếng là sắc nước hương trời và cũng chính vì kén chọn mà cô lấy chồng muộn. Chú Tư chồng cô người Nha Trang theo mẹ ra Bắc từ nhỏ đến sau năm bảy lăm thì quyết định đưa cô trở về quê và đi xây dựng kinh tế mới ở Ban Mê Thuột. Chú làm lái xe cho một công ty xuất nhập khẩu nông sản còn cô sẵn có vườn đất nên cho người ta mướn trồng cà phê. Đã sáu năm Huệ không gặp lại cô kể từ lúc vợ chồng cô ra Bắc chơi. Nhưng trong tưởng tượng Huệ không sao quên được vóc dáng thanh tao mảnh dẻ của cô bên cạnh dáng người thấp đậm với cái bụng to bè của chú Tư.

Cuối cùng thì Huệ cũng tìm được nhà cô Nhung nằm khuất trong một con phố nhỏ vắng lặng. Cô đứng co ro bên hàng rào nở đầy hoa tầm xuân trắng, tay run run cầm tờ giấy đã ố vàng ghi địa chỉ của cô trong cái lạnh buổi sớm ở cao nguyên. Một lúc sau có tiếng chó sủa, rồi tiếng guốc khua nhè nhẹ lẫn tiếng lá rơi trên vườn lạo xạo."Ai kêu đó?". Giọng cô vẫn thế, mượt mà, trong trẻo như thời con gái. "Cháu đây, cháu Huệ của cô đây". Huệ đưa tay vẫy vẫy. Cô kêu trời rồi lập cập mở then cài cổng, cánh cổng chưa kịp mở bung cô đã siết lấy tay Huệ qua hàng rào mà thảng thốt kêu lên: "Cháu tôi bây giờ mới chịu về thăm tôi đây...".

Hai cô cháu ngồi đối diện ở phòng ăn. Con mèo cái có bộ lông vàng óng chạy qua chạy lại trước mắt Huệ, chốc chốc lại gườm gườm nhìn cô. Huệ nhấm nháp bánh quy và uống từng ngụm ly cà phê thơm nức mà cô Nhung pha cho cô. "Chú đâu rồi cô? Chú và cô vẫn hạnh phúc chứ!". "Đúng thế, cô rất hạnh phúc. Chú mới đi Nha Trang công tác. Chú đi hoài cháu ơi. Công việc mà. Cô có mỗi em Vi thì đi học tận trời Tây, hàng năm mới gặp một lần. Mà cô phải khóc, thậm chí phải van xin nữa em nó mới chịu về thăm cô". Huệ cố gắng cười lên để xua tan cơn xúc động của cô Nhung: "Cô ơi, cô cho em ở bên đó luôn rồi lấy một ông chồng mắt xanh mũi lõ đi thôi". "Không! Nhất định là không. Cô chiều ý chú mới cho em qua đó học. Nhưng nhất định sau này em phải về Việt Nam. Thế còn cháu, bao giờ thì có tin vui đây?". Huệ ngượng nghịu: "Cháu thì chưa biết đến bao giờ". Rồi cô nhanh chóng lảng qua chuyện khác. Suốt cuộc trò chuyện cô luôn trách Huệ sao lại nghỉ ở khách sạn mà không về nhà cô. Huệ không biết giải thích thế nào, đành hứa hẹn sẽ thu xếp về nhà cô dù cô không biết khi Quang về đây, cô sẽ làm thế nào, và nếu cô gặp Quang, một người đàn ông đã bốn mươi tuổi, cô có nghĩ ngợi gì không.

Hai cô cháu hàn huyên suốt một ngày. Huệ được dịp nghe cô ôn lại chuyện xa xưa, thời thơ ấu của cô, chuyện bố mẹ Huệ quen nhau thế nào... Có lẽ đã quá lâu cô mới gặp được người để tâm tình thổ lộ. Khuôn mặt đã hằn sâu những nếp nhăn của cô rạng rỡ tươi tỉnh hẳn ra. Huệ không khỏi xót xa khi biết được hằng ngày khi chú đi làm, cô vẫn sống cuộc sống lặng lẽ nhường này, trong căn nhà đầy đủ tiện nghi nhưng hoang vắng giữa khu vườn đầy lá rụng. Vi, đứa con gái duy nhất của cô còn trẻ quá và tham vọng quá, nó cũng như cô Nhung bốn năm trước. Chỉ cần háo hức, đam mê cộng với một chút liều lĩnh là có thể nghĩ rằng đi đến bất cứ đâu, đến miền đất mới lạ nào cũng có thể sống được. Chẳng cần gia đình. Chẳng cần điểm tựa gì hết. Có thật thế không?Huệ đăm chiêu theo cô ra vườn. Chập tối. Gió thổi rào rào qua mái hiên nhà bên, lùa vào những tán lá nghe như tiếng bão. "Gió cao nguyên đấy mà". Cô Nhung mỉm cười nhìn Huệ ôm đầu. Cô cảm thấy hơi choáng váng và xin phép cô Nhung trở về khách sạn. Cô Nhung cuống quít gọi xe cho Huệ và hối thúc Huệ lập tức thu xếp đồ đạc về với ở với cô Nhung. Huệ vâng dạ rồi lên xe, cô tự trấn an mình có lẽ chưa quen với khí hậu ở đây. Nhìn qua tấm gương chiếu hậu, Huệ thấy cô vẫn đứng đó dõi theo. Lòng Huệ thắt lại bởi cảm giác ân hận trào dâng. Đáng ra mình phải đi thăm cô sớm hơn. Huệ nghĩ thầm. Nhưng mình đã trì hoãn, thậm chí quên lãng.

Người lễ tân đưa cho Huệ chìa khóa phòng. Huệ bước lên cầu thang và thấy hơi chếnh choáng, giống như một người say. Cô suýt va phải ai đó. Một mái tóc nhuộm vàng dài đến thắt lưng chạm vào cô. Theo phản xạ cô quay đầu lại. Cô nhìn thấy bàn tay to béo, múp míp của người đàn ông đi bên cạnh đang vuốt ve mái tóc đó. Bàn tay còn lại huơ lên không khí đập chan chát. Một giọng khàn khàn, quen quen từ ký ức oang oang cất lên: "Em yên tâm, anh sẽ... Lần này anh hứa sẽ quyết tâm... tuyên chiến với mụ già...". Huệ đứng sững. Ai kia có phải chú Tư không? Dáng vóc ấy. Giọng nói sền sệt lai Bắc ấy. Không thể lẫn đi đâu được. Cô hấp tấp chạy theo. Họ đã ra đến cổng khách sạn và leo lên chiếc taxi màu trắng. Cô tưởng mình phát điên. "Chú Tư , chú Tư ơi...". Cô cuống quít gọi to. Người đàn ông thò đầu ra ngơ ngác tìm kiếm rồi thụt ngay vào vì cô gái kia đã níu tay ông kéo sát vào lòng. Huệ há hốc miệng. Cô đứng cả mươi phút dưới bầu trời ảm đạm không trăng sao báo hiệu một cơn mưa đêm rầu rĩ đang đến.

"... Cô rất hạnh phúc. Chú mới đi Nha Trang công tác. Chú đi hoài cháu ơi". Chao ôi, cô Nhung tội nghiệp. Huệ gục đầu xuống gối. Điện thoại réo vang. Có lẽ Quang đang gọi cho cô. Hay là cô Nhung. Huệ bật lên nức nở. Tiếng chuông réo vang, trở đi trở lại nhiều lần hòa trong tiếng khóc.

Huệ xách chiếc va ly còn chưa mở khóa ra khỏi khách sạn. Cô hấp tấp làm thủ tục trả phòng rồi ra ngoài kêu xe ôm chở đến bến xe. Anh ta nói với cô còn một chuyến Sài Gòn vào mười một giờ đêm. Huệ ngồi một mình, co ro ở phòng đợi, tay run rẩy cầm chiếc điện thoại trên tay. "Anh đừng về Ban Mê nữa". Tin nhắn vừa được gửi đi, cô vội vã tắt máy.
Gần mười hai giờ đêm chuyến xe mới khởi hành. Huệ ngả lưng xuống ghế. Người ta đang bật nhạc, tiếng nhạc hòa lẫn tiếng mưa rơi, những bản tình ca cô vẫn thường nghe và yêu thích nhưng lúc này cô không hiểu không biết gì. Qua ô cửa kính chắn ngang một nửa, Huệ nhìn ánh đèn xe chạy ngược chiều loang loáng sáng rồi lụi tắt với cảm giác đau đớn tột cùng. Một cái gì đang vỡ tan, đang đổ sụp không thể nào cứu vãn. Gương mặt Quang ngày đầu tiên anh nắm lấy tay cô hiện ra rõ mồn một: "Anh và cô ấy không hợp nhau tất yếu sẽ không có hạnh phúc... Anh cần em...". Cô bất chợt nhớ đến chị Hoa, đến ánh mắt chứa chan tin yêu chị dành cho cô. Ánh mắt ấy cũng giống như ánh mắt cô Nhung khi nhắc đến chồng mình. Ôi, niềm tin khi đã đặt lầm chỗ lẽ nào chẳng có ngay cả giá trị tương đối? Và hạnh phúc là gì? Những câu hỏi, những liên tưởng lộn xộn ngập tràn tâm trí Huệ.

Cô không thể tìm được câu trả lời. Phải chăng suốt chặng đường cô đã đi qua với những gì mà cô cầm nắm chỉ là thứ hạnh phúc quá mơ hồ huyễn hoặc. Và có quá muộn không khi đến giây phút này cô mới kịp nhận ra điều đó...?
 

CongVoi

Super V.I.P
TÌNH YÊU
Bắt đầu từ những ngón chân. Anh vẫn thế. Tôi đã quen dần kể từ đêm tân hôn. Người ta nói nhiều về cách thức và biểu đạt, về những khám phá mới lạ, như đường vào mê cung muôn vàn kỳ thú nhưng biết chọn lối nào, biết tìm nơi đâu, hay chăng chỉ cần một lối…?
Tôi chấp nhận điều đó nhưng là một sự chấp nhận đầy hân hoan. Vì tôi luôn rùng mình khi anh mơn man ngay từ điểm đó. Kể cả lúc này. Tính từ ngày ba mốt tháng năm, ngày cưới của chúng tôi cho đến ngày hôm nay đã là sáu tháng, tôi vẫn cảm thấy rùng mình.Những ngón chân tôi nhỏ nhắn, hồng hào, gan bàn chân tôi nhạy cảm. Mỗi lần môi anh chạm vào, nó lại rùng lên từng tế bào sau cảm giác tê cứng mãnh liệt.
Và khi ấy, tôi đã biết thế nào là hòa trộn, dù tóc tôi chưa xoắn vào tóc anh, tay tôi chưa đan vào tay anh, chúng tôi chưa khăng khít, dù vậy, tôi đã thăng hoa. Và anh cũng thế.
Bàn chân, điểm nhấn đầu tiên của anh, của tình yêu chưa bao giờ gẫy khúc mà nó khởi đầu liền mạch khởi đầu liền mạch như khóa son trong bản nhạc ngân nga du dương và êm ái.
Anh sẽ thôi không hỏi tôi: “Em yêu, em có hài lòng về anh hay không?”. Vì tôi chẳng cần phải nói gì thêm. Chỉ cần tôi hôn lại anh, và bắt nhịp đều đặn. Anh sẽ biết tôi mãn nguyện, anh sẽ tự hào vì mắt tôi sáng rực long lanh đã nói lên rằng anh là người đàn ông thông minh và vĩ đại ngay cả trong giấc ngủ.Bình minh chưa chiếu rọi anh đã thức dậy và châm thuốc. Anh luôn hút thuốc trên giường ngủ nhưng không bao giờ để tôi phiền muộn vì tàn thuốc. Tôi thích ngắm anh như thế, vì trông anh nguyên sơ như một đứa trẻ lớn xác và háu đói.
Tôi nấu súp, pha cà phê cho anh, bật Chopin cho anh nghe. Và thế là, tôi hoàn thành xuất sắc vai trò của một người vợ đảm đang. Sau khi cùng ăn sáng, chúng tôi vật lộn vui đùa một chút rồi tạm biệt.
“Em yêu, đi đường cẩn thận”. Anh đi theo tôi một đoạn rồi chia tay ở ngã ba. Tôi nhìn hút theo bóng anh, phát hoảng vì tại sao mình lại sững sờ đến thế. Đó là trạng thái si tình của một cô bé mười bảy tuổi chứ không phải của một người đàn bà gần ba mươi.
Nhưng tôi yêu anh, tôi biết rõ điều đó, một người đàn bà yêu chồng không phải là chuyện lạ, nhưng yêu như cách của tôi, thì đó là điều mà không ai có thể nào cắt nghĩa.
Hết giờ, tôi ghé ngang nhà mẹ chồng. Tôi mua biếu bà một ít sâm. Đường phố trôi đi như dòng sông cạn. Tôi sẽ đến nơi cần đến sớm hơn nếu không kẹt xe, tôi sợ sự đông đúc nhưng vẫn phải đứng giữa đám đông ầm ĩ nhốn nháo khói xe, bụi và tiếng chửi.
Vây quanh tôi rất nhiều gương mặt đàn ông. Họ chưa bao giờ nhàn tản như vậy, nên không ít người lấy tôi làm tâm điểm để ngắm nghía, vì tôi trẻ đẹp hay vì tôi quyến rũ? Nhưng hoài công suy nghĩ cho mệt nhọc vì tôi đã tìm lại cảm giác an toàn bằng một cái khẩu trang rộng rãi che đi gương mặt tôi, che đi cả những lọn tóc xoăn lả lơi. Và khi ấy, tôi nhớ anh da diết...
“Con đã thấy gì chưa?”. “Thấy gì hả mẹ?”. Tôi mải gọt khoai tây nên không để ý lời mẹ chồng tôi nói, đến khi quay ra thấy mẹ chồng tôi bắt đầu cau có, những nếp nhăn dúm dó, tụ lại, dồn về phía nhân trung.
“Con biết rõ mẹ muốn nói gì rồi đấy, mẹ cần một đứa cháu”. À ra thế. Tôi mỉm cười. “Mẹ không phải là người biết đùa”. “Con hiểu”. “Các con không kế hoạch đấy chứ?”. “Dạ không”. Tôi bắt đầu đỏ mặt. Tôi không quen nói sống sượng bất kỳ một vấn đề nào.Tôi trở về nhà mà không ở lại ăn tối cùng mẹ chồng. Tôi cảm thấy mệt. Chồng tôi vừa đi tiếp khách về, anh đón tôi bằng nụ hôn nồng nhiệt. Tôi đáp lại nhưng không rướn mình.
“Em buồn phải không?”. “Hình như thế”. “Nói anh nghe xem nào”. “Chút nữa nhé, bây giờ em muốn đi tắm”. Tôi chạy nhanh vào nhà tắm cởi áo và nhìn mình trong gương. Ngực tôi trắng và nở nang. Eo tôi thon thả đến mức không bao giờ tôi muốn có bầu. Nhưng thay vì cảm giác sung sướng, sao tôi lại cảm thấy lo âu như thế này.
Tôi ngâm mình trong bồn tắm, mùi sữa anh mua cho tôi ngào ngạt hương hoa hồng thấm đẫm thân tôi. Tôi nhắm nghiền mắt vã nước lên người. Tôi muốn tập trung vào một vấn đề, đó là chuyện sinh nở.
Tôi nhớ đám bạn gái của tôi, hầu như chúng có bầu trước ngày cưới. Hoặc hai, ba tháng sau đã có tin vui. Tôi vẫn cho đó là chuyện bình thường. Nhưng sao với tôi, tôi lại thấy vô cùng xa lạ?
Tôi nên cảm ơn mẹ chồng hay là oán trách bà, đã đẩy tôi vào những suy nghĩ khốn cùng này? Tôi mịt mùng không lối thoát. Tôi đứng dậy quấn khăn vào người và bước ra. Anh đã đợi tôi trên giường.
“Chúng mình nói chuyện nhé”. “Anh đồng ý!”. Anh luôn nhiệt liệt hưởng ứng những đề nghị của tôi, trước đây và bây giờ cũng vậy. Nhưng xem ra anh thật chủ quan, cứ nhìn phong thái điềm đạm của anh thì biết.
Sự chủ quan của anh làm cho tôi bối rối. Tôi đứng trân trân nhìn anh, ngơ ngác, khiến anh kéo tôi mạnh mẽ vào lòng. “Thôi nào cô bé, hãy nói cho anh nghe em cần gì”. “Một đứa con…”. “Sao cơ, một tí nhau à?”. Anh hơi sững sờ. Tôi gật đầu: “Vâng, mẹ anh muốn thế”.
Anh nằm gối đầu lên đùi tôi. Chúng tôi miên man theo dòng nghĩ suy bất tận. Tay anh áp vào má tôi dịu dàng, hơi ấm tỏa ra khiến tôi ngây ngất. “Anh đã nghĩ rằng em chưa muốn, còn với anh, đó là điều mong muốn nhất của anh. Anh muốn chúng mình có thật nhiều con, chúng sẽ giống như em”. “Giống cả anh nữa chứ”.
“À, tất nhiên, nhưng em đã uống thuốc mà, phải không”. “Không!”. Tôi hơn chồm người. “Em không hề”. “Anh có nhìn thấy những viên thuốc màu hồng trong ngăn kéo của em. Nhưng anh không hỏi. Anh muốn em xinh đẹp như một thiếu nữ cho đến khi nào em chán thì thôi. Và anh không muốn em đau”.
Thì ra anh đã nhầm lẫn những viên thuốc trị bệnh viêm xoang mãn tính của tôi với những viên thuốc tránh thai. E rằng sự tế nhị thái quá của anh đã phá vỡ đi rất nhiều quy ước giữa chúng tôi là cố gắng hiểu nhau đến từng chân tơ kẽ tóc.
Và thế là, tôi với anh đã có một đêm tuyệt vời bên nhau nữa.
Nhưng cuối tháng tôi vẫn phải đi mua băng vệ sinh. Chưa bao giờ điều đó đối với tôi lại trở nên tồi tệ thế. Vào thời điểm này mẹ chồng tôi bắt đầu thúc giục: “Con xem thế nào đi chứ. Mẹ thấy có cái gì đó không ổn”.
Thà rằng bà nói thẳng ra là cô nên đi bệnh viện khám xét thế nào, chứ người gầy như cô, nghi ngờ lắm. Con trai tôi cao to khỏe mạnh và rắn rỏi thế kia. Làm sao có thể. Hay anh chị mê mải kiếm tiền nên trì hoãn?… Tôi đọc được một trăm phần trăm ý nghĩ của bà, đằng sau cái dằn mạnh ống nghe điện thoại trơ khấc bên tai tôi trong một đêm mùa đông lạnh lẽo.
Tôi hoàn toàn mất ngủ. Sáng hôm sau tôi nghỉ việc buổi sáng và đến bệnh viện phụ sản.
Sau một loạt xét nghiệm và mấy chục câu hỏi từ giản đơn đến phức tạp, bà bác sỹ già có cái đầu xoăn tít như mì tôm nhìn tôi mỉm cười: “Em hoàn toàn bình thường”.
Thà rằng bà ta nói, tôi có vấn đề, có khi tôi lại mừng hơn thế.
“Trường hợp hiếm muộn vẫn xảy ra phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế giới. Tuy nhiên, chị sẽ cho em một cái lịch đặc biệt, điều này cần sự hợp tác của chồng em. Nếu không hiệu quả, em nên động viên chồng em đến bệnh viện”.
Anh của tôi phải đến bệnh viện ư? Cứ như đùa. Niềm tự hào lớn nhất của anh, tôi thừa biết, không phải là cái bằng phó tiến sĩ mà là từ bé đến giờ anh chưa bao giờ phải vào bệnh viện.
Khốn khổ cái thân tôi. Khi tôi phải gánh thêm cả nỗi lo lắng cho chồng mình.
Bữa tối kéo dài hơn vì tôi cố tình trì hoãn. Tôi quan sát anh một cách kín đáo. Tôi nhìn đôi tay của anh, nó rất rắn chắc. Anh đang và những hạt cơm cuối cùng.
Tôi nhìn bờ vai anh. Phía trên là cổ, cổ của anh gợi cảm hơn bao giờ vì tôi thường hôn lên đó. Phía trên nữa là cằm, là môi, là mắt, là tất cả những gì yêu dấu của cuộc đời tôi, là hơi thở, là máu thịt, là tiếng rung của nhịp đập trái tim tôi, là niềm hoan lạc say mê đắm đuối, là sức sống bền bỉ, là mạch nước ngầm tưới tắm thân xác tôi trong cuồng vọng khát khao.
Nhưng, lẽ nào, chỉ đến thế thôi. Không gì hơn. Như một hạt mầm kiêu hãnh tràn căng nhựa sống nhưng chẳng thể nảy nở phôi thai thành quả chín?Ngày hôm nay, tôi đã biết thế nào là sự vò xé.
Tôi quyết định không nói gì hết. Tôi im lặng, lì lợm với chính tôi, chứ không phải là với anh. Anh, đối với tôi vĩnh viễn là toàn bích. Và thế là, tôi lục lọi kiếm tìm tờ giấy có ghi ngày lịch đặc biệt của bà bác sỹ già và xé vụn nó đi một cách không thương tiếc.
Lịch của chúng tôi là sáng, trưa, chiều, tối, đêm, bất kể lúc nào mà chúng tôi muốn. Giấc mơ về những đứa trẻ trở nên tan tành mục nát. Tôi ráo hoảnh và bất cần với chúng. Tôi tiến đến gần anh, thì thào: “Hôn em đi”. Và anh bế tôi lên, xoay tròn. Nhưng tôi khi ấy vì quá cuồng nhiệt nên đã không nhìn thấy những giọt nước mắt của anh lăn xuống và đã được anh lau đi rất vội.
“Em không nhìn thấy phải không cô bé, nhưng anh đã không kìm chế được. vì anh thương em, yêu em đến mức tôn thờ. Em có thấy anh đã hôn em nồng nàn thế nào không? Vì gương mặt em ngây thơ thánh thiện quá, đôi môi em tham lam run rẩy quá. Em chẳng biết gì, em chẳng biết nỗi tủi hổ đang lăm le cắn xé tâm hồn anh, người chồng tội nghiệp của em.
Anh đã đến bệnh viện ngay sau khi phát hiện ra sự nhầm lẫn của mình về những viên thuốc của em. Xin lỗi, anh đến bệnh viện với tâm thế của một người đàn ông mang trong mình đầy kiêu hãnh với ý thức khẳng định mình chứ không phải hoang mang, hãi sợ khi kiểm tra một vấn đề đang giằng xé, nghi hoặc trong tim. Nhưng, anh đã thất bại.
Em yêu, anh bất lực và tuyệt vọng nhường nào, khi phải nói với em rằng, sẽ rất khó khăn để đem lại cho em một đứa con xinh đẹp và thông minh như em. Hãy sỉ vả và nghiền nát anh đi, nếu điều đó làm cho em thanh thản. Anh sẽ ra đi một thời gian. Cô bé, em hãy tĩnh tâm, em cần phải suy nghĩ và sau đó, mẹ anh sẽ thay anh làm cho em tất cả những điều ] em muốn…”.
Tôi nắm chặt lấy tay mẹ chồng tôi, thắt lòng bởi tiếng tru tréo của bà. Tôi sợ bà sẽ đập đầu vào tường, giống như tôi khi nhận lá thư này trong phòng ngủ trống trơn thiếu vắng tất cả những bộ quần áo mang mùi mồ hôi của anh, những chiếc cà vạt, những bức tranh anh vẽ, những sách, những vở, những bông cúc trắng anh mua cho tôi… Đáp lại tôi là gì là gì. Chỉ là câm lặng. Anh rũ sạch mà đi. Anh phũ phàng bỏ mặc tôi u mê và hoảng loạn.
Khu vườn này cỏ đã mọc ngang mắt cá chân, không anh, nó sẽ trở nên hoang dại. Tôi thả chân trần trong không gian mát lạnh và ẩm ướt. Đêm nào cũng thế, trước khi đi ngủ, tôi ngồi ủ rũ trong bóng tối, giữa cây lá xanh xao.
Tôi cắn môi thật chặt đến ứa máu, đến lúc bật khóc vì tự làm mình đau, rồi thảng thốt. Vì tôi sợ mình không kiểm soát nổi, mình sẽ thét gào, điên dại, sẽ ngu xuẩn làm nhiều điều hơn thế.
Chưa bao giờ, tôi cần đến vậy, những viên thuốc ngủ, dù chúng đã mang đến cho tôi giấc mơ kinh hoàng về những đứa trẻ. Những đứa trẻ trần truồng và độc ác hò hét nối đuôi nhau kéo anh ra khỏi vòng tay tôi. Tôi chỉ có một kiếp người, tôi muốn sống cho anh và anh cũng thế, tôi không muốn sống thêm cho ai, bất kỳ ai khác nữa…Đêm loang thêm những nỗi buồn.
Ngày nào tôi cũng gọi điện cho anh, dù chỉ để nghe câu: “Thuê bao quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được…”, đến mức tôi nghiền giọng nói của người phụ nữ xa lạ ấy, như một hội chứng.
Sếp của tôi là một người đàn ông Hàn Quốc nhạy cảm. Anh ta đã nhận ra điều gì đó bất ổn từ phía tôi, một nhân viên vốn mẫn cán và linh hoạt. “Chiều nay hết giờ làm, em ở lại nhé. Tôi muốn gặp em một chút”.Tôi chóng mặt, cúi đầu. Tôi đang rảnh, rất rảnh, tôi sẵn sàng đón đợi những oán trách của ai đó để khỏa lấp đi những ưu tư chồng chất về anh, về sự thiếu vắng. Nhưng cuối cùng, sếp đã không làm gì tôi cả.
Sếp hỏi tôi: “Em có rảnh không? Tôi cần sự giúp đỡ của em”. “Về điều gì? Thưa sếp?”. “Tôi biết, em là người phụ nữ tâm lý, em hãy đến an ủi vợ tôi giúp tôi…”. “Nhưng điều gì đã xảy ra với cô ấy?”. “Cô ấy mắc bệnh ung thư, tôi muốn cô ấy hạnh phúc đến chừng nào có thể”.
“Anh yêu, em đã nhận lời đến nhà sếp. Em đã gặp vợ của anh ta, đó là một cô gái Việt Nam xinh đẹp, cô ấy kém em ba tuổi, nhưng cô ấy sắp chết. Em đã nắm tay cô ấy, và chỉ biết khóc.
Em khóc không chỉ vì thương xót cho một cuộc đời bất hạnh, mà em khóc khi nhìn lên gương mặt đẫm lệ của sếp, anh ta đứng bên cửa sổ, người run lên từng chặp.
Em sững sờ trước hình ảnh ấy. Em nhớ về những giọt nước mắt của anh. Khi những người đàn ông khóc, là khi sức chịu đựng của họ đã vượt quá ngưỡng, có phải thế không anh?
Lúc ra về, em quay đầu lại vẫn thấy họ ôm nhau. Vì có thể, không lâu nữa, một trong hai người sẽ ra đi vĩnh viễn. Đấy là sự mất. Mất. Một khái niệm khủng khiếp nhất. Vì nó chính là tan biến, là vĩnh viễn thoát, là cào cấu cắn xé cả thế giới mênh mông bao la này cũng không thể nhìn thấy, cầm nắm và đụng chạm cái ta cần.
Anh có dám khẳng định cùng em rằng anh đang hạnh phúc và vẫn có thể sống được khi rời xa em mà đi? Nếu không, tại sao anh không quay trở lại. Khi chúng ta còn có nhau nhiều lắm, nhiều hơn bao người khác…?”.
Một địa chỉ email sót lại của anh đã giúp tôi, như một sự cứu rỗi cuối cùng.
Tôi vẫn tin yêu và hy vọng nhường nào, ở một phương trời nào đó, anh sẽ nhận được.
Mùa đông đã đến, xám xịt và u ám bởi những bọng mây căng mọng trên trời chỉ chực nứt toác thành những cơn giông tố. Chiều đổ sập xuống khiến mọi người vội vã ra về. Còn tôi nấn ná mãi nơi hành lang trống trải, dưới mái hiên màu nâu xám, co ro, nghe tiếng chim sẻ líu ríu sau vòm cây xanh ngắt.
Và thật bất ngờ, tôi thấy sếp đứng bên cạnh tôi tự lúc nào, nhưng chúng tôi không biết nói gì hơn. Vì nỗi đau, đôi khi chỉ để mà lắng đọng.
Ngày trôi đi, lặng lẽ theo những bước chân người.
Tôi luồn cửa sau để vào nhà, nơi khu vườn đã lâu thiếu vắng bàn chân anh. Sau lưng tôi tỏa ra một làn khói nhẹ màu lam nhạt vấn vít từ phía hàng rào giăng đầy dây thép gai và hoa hồng tiểu muội. Trời se lạnh, tôi chợt nhận ra mình đã để quên áo khoác ở công ty.
Tôi thèm một ly sữa nóng. Nhưng tôi không thể làm được gì hơn, vì sự run rẩy đang thấm dần, thầm dần thân tôi, trí óc tôi, tâm hồn tôi. Nó khiếp đảm đến mức tôi phải dựa lưng vào tường, chùi khăn quàng cổ lên miệng để tránh cơn ho đang giằng xé nơi cổ họng. Nỗi cô đơn, đối với tôi lúc này, chưa bao giờ lại đáng sợ hơn cả cái chết.
Nhưng kìa, trong bóng tối của căn phòng, ai đó đang gọi tên tôi. Và không kìm chế nổi, tôi quay đầu lại, tôi nhìn thấy bóng dáng anh in thành một khối đen sẫm trên tường.
Tôi chưa kịp ngồi sụp xuống thì anh đã chạy đến, ghì xiết lấy tôi trong vòng tay anh, áp tay tôi lên má anh, dù những ngón tay tôi lúc này lạnh ngắt và khô khan, như mùa đông, như đường gân của lá, như một sự tuyệt vọng…
“Anh đã về đây…”. Tôi nhìn những giọt nước mắt của mình rơi xuống vai anh. Tôi không tin nổi, đến tận khoảnh khắc cuối cùng này tôi đã tìm lại được anh, người đàn ông của cuộc đời tôi. Qua ô cửa sổ loang ánh trăng non, những cơn gió lùa qua chấn song tạo nên âm hưởng như mưa, u uẩn và thao thiết.
Chúng tôi hôn nhau, và lại bắt đầu…
 

CongVoi

Super V.I.P
Hiu hiu gió bấc

Ở cái xóm nhỏ ven thành phố này, người ta nhắc tới anh Hết còn nhiều hơn chủ tịch tỉnh đi họp. Đứa nào hỗn hào, lười biếng, má nó biểu: "Lại coi thằng Hết kìa! Ba mươi mấy tuổi đầu rồi, ngày đi làm thuê, làm mướn, không có chuyện gì nó chê, chiều về lụi hụi chui vô bếp nấu cơm, giặt giũ cho cha già, hiếu thảo thấy mà thương". Ai mê vợ bé, mê chơi đề, đá gà, họ lườm lườm: "Mê gì như thằng Hết mê cờ". Nên nghe râm ran chị Hảo để lòng thương anh, má chị kêu trời: " Bộ hết người rồi sao, con. Cái thằng mê cờ tới mất vợ, không sợ?". Không, chị Hảo nghiêm nghị, cờ tướng là loại cờ tao nhã chỉ dành cho quân tử, có gì mà sợ. Mê rượu, mê gái mới ghê. Chỉ sợ người ta không thương mình. Má chị định càm ràm nữa, thì chị đã quay lưng ra quán mất rồi.
Quán chị Hảo cũng nhỏ thôi, buôn hàng tạp hóa lặt vặt. Quán cất trước nhà, ngó ra mé lộ, có khi không cần ngồi giữ, bà con trong xóm ai muốn mua gì thì gọi vọng vô. Chỉ buổi chiều, chị mới ra ngồi ở đó. Buổi chiều, lúc mặt trời vừa khuất sau vườn chuối, anh Hết hay ghé lại để mua 1.000đ mỡ nước, 500đ bột ngọt, 500đ tỏi, 500đ tiêu. Chị cố bán thật rề rà để nhìn anh lâu nữa, coi bữa nay chắc anh đi vác lúa đằng nhà máy chà gạo, trên tóc còn vương trấu. Nhìn vậy thôi chớ không nói gì hết. Con trâu không nói sao cái cọc nói được. Nhưng vẫn cứ đón chờ, có khi sớm, khi muộn hơn một chút nhưng chị biết thể nào thì anh cũng về qua, về để nấu cơm cho tía anh.
Tía anh Hết năm nay 72 tuổi. Tuổi này, người ta hay đau yếu nhưng ông vẫn còn sỏi lắm. Ông già khó tính, thêm tật lãng tai. Người ta mời ông ngồi, ông cười, xua tay: " Ăn rồi. Ăn cơm với thằng Hết rồi". Chừng năm năm trước, ông còn vô bếp nấu cơm, mắt mũi tèm nhèm để lửa táp vô vách lá, nhà cháy rụi. Anh Hết cất lại nhà trên nền cũ đầy tro, nhìn xa nhà lớn hơn miếu ông Tà một chút. Ông già ngồi tiếc cái tivi đen trắng, mỗi lần mở phải đập thùm thùm nó mới lẹt xẹt lên hình. Ông già điếc đát vậy mà mê tivi, cháy rồi thì thôi vậy, chiều chiều chống gậy thả qua nhà hàng xóm coi nhờ.
Bữa nào anh Hết cũng chổng mông thổi lửa, rồi dọn cơm sẵn, ngồi dựa cửa trước chờ tía anh về. Có bữa chờ tới mỏi mòn, để bụng đói ngồi ngủ gà gật. Người ở xóm biểu cứ ăn trước đi chớ chờ gì, anh cười, mâm cơm có ấm cúng, tía tôi mới vui miệng, ăn nhiều. Nhưng có bữa, anh mới vừa giở cửa chui vô nhà, ông già đã ngồi nhai cơm cháy, bị nghẹn, mắt ầng ậng nước. Anh thương tía quá chừng vội vàng chạy đi vo gạo.
Anh Hết mồ côi má từ mới lọt lòng. Bà chết vì sinh khó. Ngoại anh đặt tên là Hết. Chắc tại lúc đó đau lòng quá kêu đại vậy, chớ không có nghĩa gì đâu. Anh Hết lớn lên, yêu hết thảy từng con người, từng tấc đất ở cái xóm Giồng Mới. Cái xóm nhỏ ngoại ô biết bao thương nhớ, những bờ rào giâm bụt xanh, những hàng cây đủng đỉnh xanh. Những người đàn ông chuyền tay nhau dỗ dành đứa trẻ thiếu hơi ấm mẹ. Những người đàn bà cho anh bú thép, để con khóc ngoe ngóe trên giường.
Tía anh không đi bước nữa, ngày ngày cột sợi dây võng dài từ nhà trên xuống bếp, vừa đưa vừa nấu nước cháo, hát vọng lên, " Chớ ầu ơ... Cây khô đâu dễ mọc chồi..." . Chừng này tuổi rồi, mỗi khi anh đặt lưng xuống bộ vạc, lại nhớ ngơ nhớ ngẩn lời hát của tía anh ngày xưa. Buồn lắm, nghe đứt ruột lắm. Càng nhớ anh càng thương ông. Câu được vài ba con cá rô, anh bắc cái ơ lên kho quẹt, tỉ mẩn lọc phần thịt dành cho tía, phần xương xẩu phần mình. Những trưa nắng tốt, tranh thủ giờ cơm trưa anh xin phép chạy về, dắt tía anh ra ngoài hè tắm rửa, kỳ cọ. Những tối trời mưa, anh lúp xúp cầm cái nón mê đi đón ông già. Đi cạnh, che đầu cho ba, nghiêm trang như đang chở che cho sinh linh nào đó nhỏ bé lắm, yếu ớt lắm.
Nhưng ông già đâu có yếu, ông xách gậy rượt đánh anh hoài đó chớ. Tía đầu bạc rượt thằng con đầu xanh chạy cà tưng đuổi nhau lòng vòng quanh mấy cây me già ngoài mé lộ. Đám trẻ xúm lại, vỗ tay như coi hát bội. Hỏi anh Hết sao không chịu chạy nhanh để bị dính đòn, anh bảo, chạy thì được, nhưng càng nhanh thì tía anh càng mệt, chịu có mấy roi nhẹ hều, nhằm gì.
Ai nghe nói cũng thương. Đúng là tên sao thì người vậy, chịu thương chịu khó hết mình, hiếu thảo hết mình. Có cái tật mê cờ, mê cũng hết mình.
Người ta nhắc hoài chuyện anh hễ cắm đầu vô bàn cờ rồi quên đói, quên ướt, súng nổ cái đùng cũng coi như không nghe thấy, như là đã thoát tục rồi, bình an, xa rời mọi điên đảo. Thấy con bồ mình đang thương dắt tay chồng tương lai đi sắm sửa đồ cưới mà cứ lo mang xe chiếu tướng, thì đúng là không còn hỉ nộ ái ố gì nữa rồi. Cũng có nhiều người thích đánh cờ nhưng say đến mức coi con cờ như con người thì không ai làm được, ai đời, đi chốt qua sông mà anh khóc, nước mắt chảy ròng. Chị Hảo nhớ, bữa đó hình như đám gả chị Hoài.
Người ta nói chị Hoài đi lấy chồng cũng tại anh Hết mê cờ.
Họ thương nhau từ lúc hai người mới 22, 24 tuổi. Thời đó, tuổi đó, người ta thương không nhìn gia cảnh, địa vị. Tuổi đó, người ta yêu không ngại ngần, không e dè, rà cản, họ để lòng tự nhiên như dòng chảy của sông. Bên nhà chị Hoài biết con gái hay hẹn hò với anh Hết ngoài cống đá thì không vui. Má chị Hoài hỏi sao đâm đầu vô thương chỗ đó, cô hỏi lại: "Anh Hết hổng được chỗ nào hả má?". "Ừ, tao chê chỗ nào bây giờ, thằng Hết được, hiền, giỏi giang, chịu khó lại hiếu thảo. Nhưng nó nghèo quá, thân sơ thất sở không một cục đất chọi chim, biết có lo cho bây sung sướng được không. Bây quen được tưng tiu mà" . Chị Hoài không cãi ra mặt nhưng bụng nghĩ, còn sức lực còn đôi tay, còn cơ may thay đổi cuộc đời.
Lúc đó, anh Hết vẫn chưa mê cờ. Nhưng anh biết chơi nhờ đi làm bốc vác ngoài nhà máy, mấy ông già chèo đò truyền lại, nức tiếng với mấy chiêu pháo đầu, bình phong mã, công thủ song toàn. Cho tới lúc má chị Hoài lại nhà, không biết nói gì nhưng có khóc. Những giọt nước mắt chảy tràn trên khuôn mặt già nua của người đàn bà đã từng cho anh bú thép. Sáng hôm sau anh đã thay đổi, nhanh như người ta lật một bàn tay. Anh đam mê cờ tướng. Anh hay na bộ cờ ra ngồi mấy gốc cây bên vệ đường để tìm đối thủ, để ai cũng thấy đúng là thằng Hết bê tha thiệt rồi. Nó không chịu làm ăn gì mà tối ngày nướng thời gian trên mấy con cờ xanh đỏ.
Hồi đó, tía rầy anh dữ lắm. Anh thưa với con, nợ sữa là món nợ lớn nhất đời người. Con đã nợ má em Hoài, tía à. Không biết ông già rồi có hiểu gì tình cảm của tụi trẻ không, ông ừ hử vậy. Nhưng thấy anh ngồi la cà đánh cờ ở đâu, giữa đường cũng vậy, ông vác cây đánh ngay đó. Vừa đánh vừa kêu nhịp nhàng " Xe nè! Chốt! Pháo nè! Bụp! Chiếu hả, thằng ma cà bông, tao chiếu cho mấy đường" . Ông ca cẩm thằng con ông bây giờ tệ bạc lắm chiều hôm qua nó để ông ăn cơm nguội chung với mấy con gián. Ông nói mà giọng ông hơi nghèn nghẹn dường như trong lòng đau nhói lắm. Nuôi nó từ nhỏ tới lớn, bây giờ ông mới đánh nó đây, đánh để giúp nó trả ơn đời. Tối về ông bắt nó nằm cho ông xoa dầu, hỏi bày đặt yêu đương chi mà khổ vậy con ơi. Xóm này người ta không biết nên nói mày hết thuốc chữa rồi. Con tao mà vậy à.
Chị Hoài cũng can ngăn, thuyết phục mãi, tốn không biết bao nhiêu là nước mắt, cuối cùng đành phải bỏ đi lấy chồng. Hôm đám, anh Hết còn tỉnh bơ ngồi ngoài bờ, dưới gốc còng, hào hứng bày cờ ra chơi với mấy đứa nhỏ. Đám bạn gái ai cũng xì xầm, chắc thằng Hết không thương thiệt con Hoài nên mới dửng dưng vậỵ Chị Hoài nghe mà khóc không thôi, bảo với chị Hảo, có cái tiếng bạc tình ảnh cũng gánh cho em rồi. Tranh thủ lúc chưa làm lễ, chị Hoài rủ chị Hảo mang cả áo xống chạy ra, nhìn anh như nhìn lần chót, như lấy chồng là chết vậy. Anh Hết dứt khoát không ngước lên. Thôi, không nắm níu gì được nữa rồi, nghe người ta kiếm cô dâu, hai chị quay vào. Đi một đoạn, nghe đám con nít trộ lên, anh Hết sao mà khóc vậy. Đâu có. Có mà, nước mắt anh rớt lên con tướng này nè, đó, nó ướt nhẹp đó thấy chưa. Hết cười lớn, nói lớn: "Ừ, tại tao thương con chốt. Qua sông là không mong về" ...
Chị Hoài vừa đi vừa khóc. Lời của anh Hết làm chị Hảo thương điếng trong lòng. Con người này, nghĩa biết trọng mà tình cũng thâm.
Anh Hết lại sống như những ngày trước kia lầm lũi đi đào thuê, vác mướn, kiếm tiền nuôi tía. Đôi ba hôm, đi làm về, đã thấy trên cái bếp còn ấm tro một nồi cơm nấu sẵn với một mẻ cá kho khô. Có bữa, mẻ kho đổi lại là nồi canh rau đắng. Rồi anh Hết gặp chị Hoài đi chợ về, thấy bóng anh từ đằng xa, chị lấy nón che một bên má bầm tím. Anh Hết chạy theo, giằng lấy nón mà xót xa:
- Sao nông nỗi vầy, Hoài.
Chị Hoài nói chị té đập mặt vô cạnh cửa nhưng anh Hết không tin: "Hoài ơi, em hạnh phúc, tôi mừng. Hoài cứ như vầy, chắc tôi bỏ xứ". Chị Hoài khóc, người ta chớ đâu phải con cờ mà hễ qua sông là đứt lìa phần đời trước.
Rồi chị Hoài cũng tập thương chồng, thương không giấu giếm, ào ào như người ta bán thuốc sơn đông. Chị thôi không đứng tần ngần chỗ nhà chú Hết mỗi khi đi chợ về, thậm chí chị không thèm nhìn về phía ấy nữa. Chị Hoài nói với bạn: "Bữa nay đi chợ mua mấy khúc vải về may đồ cho anh Thứ. Ảnh nói mặc đồ chợ cũng được mà tui đâu có chịu, người vợ biết đường kim mũi chỉ lúc nào cũng làm ấm lòng ông chồng, phải hôn nè..." . Giữa đường nói chuyện chồng con mà giọng chị Hoài lanh lảnh, chừng như nhắn với Hết, thôi đừng đi đâu hết, tôi quên anh rồi, quên thiệt, quên luôn, bây giờ tui thương chồng tôi lắm đây. Cho bỏ tội mê cờ, nghen.
Nhưng từ ngày chị Hoài lấy chồng, anh Hết đã không đụng tay vào quân cờ nào nữa. Anh hay ngồi nhìn bàn cờ mặt buồn rười rượi, mấy đứa nhỏ không biết, cứ rủ hoài, ừ thì chơi. Anh biểu tụi nó bày cờ ra, rồi tự đi quân, anh không nhìn, chổng mông vo gạo, một đứa nói vô pháo đầu nghen, anh kêu mã tấn. Tấn chỗ nào? Tấn giữ con chốt đang bị con pháo rình đó, biết còn hỏi. Tụi nhỏ kêu, đây là kiểu "hiệp sĩ mù nghe gió kiếm", đánh cờ mà làm công chuyện không ngưng tay, nói khơi khơi, cũng thắng.
Lụi hụi rồi bốn mùa gió bấc về kể từ mùa gió chị Hoài lấy chồng. Ba anh Hết thường chống đũa trên mâm cơm than ăn không vô. Anh hỏi ông thèm gì. Ông bảo chắc tao gần chết rồi, tao thèm một thằng cháu nội. Hết lượng sượng mãi mới cười: "Trời, thèm gì ngặt vậy, không biết con biết kiếm đâu cho tía bây giờ" . Tía anh Hết biểu lại đằng quán con Hảo lỡ thời mà kiếm. Mày giả đò hoài, con nhỏ thương mày, ai cũng biết, chỉ mày là không. Anh Hết cãi, làm gì có, tía. Ông già đứng dậy, vậy phải thử. Nói rồi vung gậy đánh. Như mấy lần trước, anh Hết lại chạy lừng khừng ra sân. Rượt chán, ông già dứ dứ cây gậy vô mặt anh rồi tủm tỉm cười quay đi. Ông già còn kịp thấy chị Hảo chạy lại vẹt đám con nít ra, đưa anh chai dầu Nhị Thiên Đường, miệng xuýt xoa hỏi anh đau chỗ nào, giọng như người thân thiết trong nhà: "Làm gì mà để tía giận dữ vậy, lén chơi cờ phải hôn?" . Anh Hết không trả lời, cầm chai dầu còn ướt mồ hôi tay của chị. Đây đã là chai thứ chín chị cho anh, anh khẽ bảo:
- Hảo, tôi... cảm ơn.
Anh ngần ngừ sau chữ "tôi" hơi lâu, làm chị Hảo chờ muốn nín thở. Ơn nghĩa gì một chai dầu gió, nó chỉ làm anh hết đau ngoài da thịt, mà trong lòng thì còn mãi. Chi vậy Hết ơi!
Đâu có biết, chỉ tại chưa quên được. Anh chưa dám nhìn thẳng vô mắt Hoài để cười, chưa dám nựng nịu con của Hoài mỗi khi chị bồng nó đi tiêm ngừa. Chưa thanh thản để chào nhau như một người bạn gặp một người bạn. Hảo có hiểu không?
Hiểu, nên tôi chờ đây nè.
Thêm một mùa gió bấc nữa, chị Hảo vẫn chưa lấy chồng. Ai lại cũng hỏi, chị chờ ai vậy cà. Chị bảo chờ người ta xức dầu Nhị Thiên Đường của chị mà hết đau, chờ người ta đánh cờ mà trong tâm " Viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh niết bàn" , chờ người ta thôi buồn khi đưa chốt qua sông.
Nhưng mà chờ tới chừng nào lận? Ai mà biết.
Mùa nay gió bấc hiu hiu lại về.
 

CongVoi

Super V.I.P
Chuyện kể trong thành phố - Ngân Hoa

Ba nhân vật khác nhau về lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp. Nhưng câu chuyện của họ đều là về một người con gái chết trẻ. Qua những câu chuyện ấy, chân dung hiện lên rõ nhất không phải là cô gái kia, mà là chính người kể. Và, mỗi câu chuyện ấy, giống như là một lỗ thủng, hay một ô cửa sổ để người đọc ghé mắt vào đó mà thấy vài chân dung tinh thần của một đời sống thị dân.


Chuyện kể của tên du đãng

Không ai tin nàng là một trinh nữ.

Họ cho rằng tôi là một thằng đểu và tôi nói vậy chẳng qua để trốn tội!

Các người cứ hỏi đi hỏi lại mãi rằng bằng cách nào mà tôi quen được nàng. Chẳng bằng cách nào hết. Hôm đó tôi vừa trúng mánh, bán được một con xe nát với giá hời cho một gã nhà quê. Tôi ngồi uống bia với mấy thằng bạn. Nàng đi qua và tôi gọi: "Này cô bé!". Tôi thấy nàng nom bắt mắt, hay hay thì gọi bừa cho vui thôi. Một kiểu ghẹo gái mà các người hẳn cũng biết thừa. Nàng quay lại và mỉm cười với tôi. Chắc nàng cũng nhận ra tôi không phải người quen nhưng cũng chẳng tỏ vẻ gì khó chịu. Điều đó làm tôi thấy mến nàng. Nàng không có cái kiểu tinh tướng của mấy đứa con gái ra vẻ bắc bậc kiêu kỳ nhưng mới liếc mắt đã sán lại ngay. Tụi bạn nhậu hỏi tôi: "Mày quen con bé ấy à?". Tôi gật đầu. Các người còn lạ gì tính sĩ diện của đàn ông. Thực ra tôi còn chưa biết tên nàng.

Lần thứ hai tôi gặp nàng cũng hết sức tình cờ. Tôi đang ngồi đợi khách trong một quán cóc ở cổng trường thì nàng bước vào mua một bịch cóc dầm rất to. Chẳng lẽ cô bé này có thể ăn hết chỗ cóc dầm ớt đỏ lòm ấy? Tôi thấy vui vui khi gặp lại nàng. Tôi xin được trả tiền cóc dầm cho nàng. Nàng từ chối nhưng bà hàng nước đã cầm tiền của tôi rồi. Tôi xua tay ra hiệu không phải trả lại. Bà ta tưởng chúng tôi quen thân nhau. Nàng cảm ơn tôi rồi chạy vội vào cổng trường vì trống đã báo giờ vào lớp. Sau giờ học tôi theo nàng về đến tận nhà. Từ đó ngày nào tôi cũng trồng cây si trước cổng trường. Lúc đầu nàng cũng có vẻ hơi sợ tôi.

Chúng tôi chỉ thân nhau từ vụ tôi giải cứu cho nàng khỏi mấy thằng nghiện trên đoạn đường qua cánh đồng sau xóm liều. Nàng thường đi học thêm tiếng Anh về trên đoạn đường đó. Các người có thể cho rằng đó chỉ là màn kịch do tôi dựng nên. Nói thật nhá đây không thèm giở cái trò tanh tưởi đó. Chuyện yêu đương là phải quân tử. Thích nhau thì O.K, không thích thì bái bai.

Một lần tôi thấy nàng có vẻ buồn lắm. Mắt đỏ hoe. Hỏi gặng mãi mới nói đang mết một thằng cha thơ thẩn giẻ rách gì đó. Nói thật tôi thì chỉ là thằng vô học nhưng ba cái thằng thi sĩ nửa mùa đó tôi khinh một mắt. Thơ của tụi nó rặt một giọng tán gái tanh không chịu nổi. Muốn chăn gối với người ta thì cứ nói mẹ nó ra, đằng này lại làm thơ đêm nay anh không ngủ được vì nhớ em rồi lại ra ngắm sao trời... Nàng có vẻ phật ý nên tôi cũng không dám bóc mẽ cái thằng cha thi sĩ bất đắc dĩ đó nữa. Nàng còn nhờ tôi đưa quà cho hắn nhân dịp ngày lễ Va lăng tanh va lăng tiếc gì gì đó. Tôi chiều hết. Thực ra tôi cũng thấy nàng dở hơi trong ba cái chuyện đó. Con gái mà không biết cành cao là chỉ có thiệt, nhưng vì đã coi nhau như anh em nên tôi luôn sẵn sàng làm vệ sĩ cho nàng.

Thằng cha nhà thơ của nàng chuối hết chỗ nói. Hắn hỏi tôi: "Ông là bồ của cô bé cóc dầm à?". Tôi bảo: "Nàng gửi cho ông cái này". Hắn cầm món đồ quẳng vào một xó rồi lôi chai rượu trắng mời tôi. Hắn bảo: "Cô bé cóc dầm của ông bám dai quá. Tôi chẳng biết phải làm thế nào. Bây giờ có lẽ chỉ còn kế tẩu vi thượng sách". Hắn lại còn lôi thơ ra đọc, bắt tôi phải nghe. Tôi thấy buồn nôn. Tôi bảo hắn: "Tôi đ. hiểu gì về thơ ca nhưng tôi biết ông là thằng đểu. Ông ngủ với nàng rồi bây giờ tính cắp quần chạy hả? Nói cho ông biết, ông mà giở cái trò chó má ấy là sẽ ăn đủ với thằng này đấy!". Tôi tính doạ chơi thôi ai ngờ thằng cha nghệt mặt ra như ngỗng ỉa. Mẹ kiếp! Thằng hèn! Tôi phủi đít ra về. Chuyện này tôi không kể ra vì sợ nàng buồn.

Chiều hôm ấy nàng ngồi lỳ trong quán ăn gần hết cả lọ cóc dầm. Tôi thấy xót ruột vì trông nàng ngơ ngác như người mất hồn. Tôi rủ nàng đi ăn miến lươn cho ấm bụng. Nàng bằng lòng ngay. Có vẻ nàng thích lang thang, không muốn về nhà. Trong lúc ăn miến lươn, nàng hỏi tôi: "Nếu anh vẫn yêu một người mà biết người ta không còn yêu mình nữa thì anh sẽ làm gì?". Tôi nghĩ cô bé này chắc đang thất tình rồi, nên bảo: "Thằng nào lừa em? Cứ để anh đến cho nó một bài học".

Nàng lắc đầu, không chịu nói. Rồi lại bảo: "Em chẳng muốn về nhà chút nào. Mẹ thì lúc nào cũng kể tội bố. Bố thì chỉ uống rượu rồi lại lầm bầm chửi mẹ là con đĩ. Hôm qua em cũng bị gọi là con đĩ. Đàn bà ai cũng là con đĩ hả anh?". "Đứa nào gọi em là con đĩ để anh đến đấm vỡ mõm nó ra. Đồ chó!".

Thấy tôi to tiếng, nàng sợ tôi nổi cáu mà đi đấm vỡ mõm cái thằng đã dám gọi nàng là con đĩ thật, nên vội nói: "Đứa nào mà chẳng có thể gọi như thế. Hôm qua em đi đường, vô ý chạm xe vào một người ăn mặc rất lịch sự, trông ra dáng trí thức lắm. Vâỵ mà hắn quay lại chửi em là đồ đĩ mắt mù à...". "Em đi đứng cho cẩn thận đấy. Cứ lơ nga lơ ngơ là có ngày chết oan chứ bị chửi là đồ đĩ thì đã nhằm nhò gì!". Ăn miến lươn xong nàng đạp xe về. Tôi đang có hẹn với một khách hàng nên cũng đi luôn, không đưa nàng về như mọi khi.

Ai ngờ đó là lần cuối cùng tôi gặp nàng. Sớm hôm nay khi đến cổng trường, vừa ngồi vào quán nước tôi đã nghe bà bán cóc dầm bảo: "Cậu không biết gì à? Con bé vẫn ngồi ăn cóc dầm với cậu ở đây chết rồi. Gia đình vừa cho người đến báo với nhà trường xong. Nghe đâu bị tai nạn nhưng có người lại nói là con bé uống thuốc ngủ tự tử... Mà này, nghe đâu con bé đã có thai ba tháng rồi. Không biết là có với thằng nào... Các cô bây giờ... Thời của chúng tôi mà như thế thì...". Cứ thế bà ta nói một thôi một hồi. Các người còn lạ gì câu chuyện của mấy con mẹ rỗi việc buôn dưa lê ấy. Cứ như thể cái tin mà bà ta vừa báo cho tôi là một tin mừng không bằng. Tôi vớ lấy xe lao ra đường. Tôi chẳng biết mình định đi đâu. Tôi chẳng định chạy trốn đi đâu hết. Tôi chẳng có tội gì. Tôi đã nói mãi mà các người không tin ư? Nàng là một trinh nữ! Giấy khám nghiệm tử thi à? Giấy khám nghiệm tử thi thì liên quan gì đến tôi? Tôi nhổ toẹt vào cái giấy khám nghiệm tử thi của các người! Các người mới chính là những cái xác chết đang bốc mùi, đang thối rữa ra. Mẹ kiếp! Tôi phải nói đi nói lại với các người đến bao giờ? Nàng là một trinh nữ!

Chuyện kể của một thi sĩ

Tôi có yêu nàng không? Tôi không thể trả lời điều đó theo cách hiểu của các ngài. Tôi yêu nàng như yêu tất cả những gì đẹp và mong manh ở cõi đời này. Nàng đẹp và phù phiếm. Nhưng nàng lại luôn đòi sự vĩnh cửu. Sự vĩnh cửu của tình yêu không hiện diện ở đời sống thế tục của chúng ta. Chỉ có tình yêu với Đấng Tối Cao là vĩnh cửu. Tình yêu với Đấng Hằng Sống trường tồn trong chúng ta và làm nên thơ ca. Tôi tôn thờ tình yêu ấy.

Tôi có ham muốn nàng không? Thân xác con người chỉ là phương tiện. Chúng ta bị cầm tù trong thân xác của chính mình. Tình yêu giúp chúng ta phá bỏ cái nhà tù đó. Trong cuộc ái ân của những thân xác, chúng ta đã vượt qua khoảng chết ngắn để đến với sự sống đích thực. Khi rời bỏ thân xác, chúng ta bay lên bằng đôi cánh của tinh thần. Lúc thân xác chúng ta nằm lại trong sa mạc của nỗi cô đơn thì tinh thần đưa chúng ta tới ánh sáng bất tử. Đó là một hành trình của số phận. Mỗi người chúng ta đều mang cỗ xe một bánh của mình trên con đường đó. Liên tục chết đi và tái sinh. Chúng ta đã để lại biết bao xác thân phù du trên con đường đi tới sự sống vĩnh hằng đó...

Khi nàng gõ cửa phòng tôi lần đầu tiên, tôi đã tự nhủ rằng thế là bánh xe số phận đã đưa nàng đến. Không! Tôi không mê hoặc nàng, không dụ dỗ nàng. Nàng đã tự đến như một tín đồ của tình yêu vĩnh cửu. Nàng đã chết cho tình yêu ấy. Xin đừng kết tội ai vì cái chết của nàng! Nàng giàu có hơn tất cả chúng ta, mãn nguyện hơn tất cả chúng ta...

Lần cuối cùng gặp tôi nàng nói: "Em chẳng còn gì để cho anh!". Tôi đã an ủi nàng: "Anh còn cần gì hơn nữa?". Nàng có vẻ hoảng hốt, bất an. Có lẽ nàng sợ hãi điều gì đó. Tôi biết có một gã du đãng đang theo đuổi nàng. Nàng thú nhận: "Em đang nghĩ đến một người khác...". Nàng khóc. Tôi ôm lấy nàng: "Lúc nào em cần cứ đến với anh. Anh luôn là của em". Nàng lắc đầu. Tôi linh cảm thấy rằng nàng sẽ chẳng bao giờ đến nữa. Nàng là thế, cố chấp và bướng bỉnh... Nàng khao khát tình yêu nhưng tình yêu lại là sự đầy đoạ đối với tâm hồn nông nổi và yếu đuối của nàng.

Xin lỗi, tôi đã trữ tình ngoại đề quá nhiều phải không? Tôi chưa trả lời câu hỏi của các ngài hay sao? Về chuyện cái thai trong bụng nàng ư? Ai là cha đứa bé ư? Điều đó có gì là quan trọng đâu. Khi một người đàn ông và một người đàn bà nhìn thấy nhau là đã có một ý chí muốn sống của một sinh thể mới thôi thúc họ. Cái sinh thể thứ ba này là nguyên nhân và động lực chủ yếu của tình yêu cuồng nhiệt. Nó đòi hỏi được hiện hữu. Nó làm cho bốn mắt nhìn nhau say đắm. Nhưng ở đây có một sự quá tải, một nghịch lý...

Người đàn ông luôn có khả năng sáng tạo vô hạn. Còn người đàn bà thì chỉ có thể hoài thai trong một giới hạn rất nhỏ. Để bù lại sự phí phạm đó, tạo hoá đã tạo ra tính phóng đãng của đàn ông và sự thuỷ chung của đàn bà. Cho nên một người đàn bà ngoại tình là trái quy luật, còn một người đàn ông là điều hiển nhiên. Cái thai là một vật tự nó. Nó ra đời hay không ra đời vì bất cứ lý do nào đều là do ý chí muốn sống của chính nó. Mọi hành động của chúng ta đều chỉ tuân theo cái ý chí bí ẩn đó một cách vô thức.

Tại sao các ngài cứ hỏi đi hỏi lại điều đó? Tôi đã nói nhưng các ngài không tin. Nếu như bây giờ nàng sống lại và nói rằng đó là đứa con của ai đó thì các ngài lập tức cho rằng nàng đã lừa dối vì muốn trói buộc người ấy. Nếu tôi từ chối đứa bé còn chưa thèm chấp nhận sự hiện hữu của chính nó trong cõi đời này thì các ngài lại bảo rằng tôi là một thằng đểu. Điều duy nhất làm các ngài đẹp lòng là sự xấu xa của kẻ khác. Cho nên câu trả lời sẽ là tôi chẳng biết gì về chuyện này. Đây là một điều bất khả tri. Nó không phải do ý chí của tôi. Tôi chẳng có quyền lực gì. Tôi chỉ là một kẻ thừa hành, không phải đấng sáng tạo. Tốt nhất các ngài hãy đến hỏi Chúa Trời. Ông ta mới là cha đích thực của đứa bé.

Buổi chiều trước khi nàng chết, chúng tôi có ở bên nhau, đến tận tối mịt. Tôi đọc thơ cho nàng nghe. Nàng khóc nức nở và nói: "Em thấy mình cứ ở mãi trong bóng tối. Em chìm trong bóng tối mênh mông. Em nhìn thấy anh nhưng không biết vì sao có một màn sương mù đặc ngăn cách hai ta. Em đi mãi đi mãi mà vẫn không đến được với anh". Tôi an ủi nàng: "Đó là vì em đang sống trong một thời gian khác, một không gian khác, một vận tốc khác. Hãy đến với anh trên đôi cánh của AÁnh Sáng. Đừng đến bằng đôi chân rời rã của mặt đất. Lúc đó em sẽ bước được vào thời gian và không gian của anh. Em sẽ ở bên anh mãi mãi". Bây giờ có lẽ nàng đã đến được nơi cần đến. Nàng đã bay trên đôi cánh của tình yêu bất tử.

Chuyện kể của bà bán cóc dầm

Có, tôi có biết con bé ấy. Ngày nào mà nó chẳng mua cóc dầm ở quán tôi. Sao, ngộ độc cóc dầm à? Làm gì có chuyện đó! Chưa có ai chết vì ăn cóc dầm bao giờ! Cóc dầm của tôi không tẩm đường hoá học, không trộn phẩm màu, không ướp phoócmôn, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Nhưng mà con bé ấy ăn cóc dầm như người ăn dở. Nhìn nó ăn tôi đã nghi nghi. Lông mày thì cứ dựng đứng lên, da xanh mét, cổ phập phà phập phồng. Không phải là đàn bà chửa thì cứ đem đầu tôi ra mà chặt. Cái ngữ ấy thì chửa hoang là chuyện thường. Mấy thằng xe ôm ở đây, thằng nào chả ngủ với nó. Cả lão già bảy mươi tuổi chạy con xe tám mốt nát kia kìa, mới hôm qua cũng khoe được con bé mới mười sáu ấy cho không vì nó chán đời, hận bố mẹ. Lúc đầu lão sợ lắm nhưng sau lại nghĩ của trời cho, không ăn no cũng phải tội. Khốn nạn, lão đáng tuổi ông nó. Thế mà không biết dơ, lại còn đi đâu cũng khoe ông ổng, làm như hay hớm lắm. Đấy là tôi nghe mấy thằng xe ôm nói thế chứ tôi có phải chủ chứa nhà thổ đâu mà biết được ma ăn cỗ ở chỗ nào. Hỏi vớ hỏi vẩn! Đấy lão ấy đến kia kìa!

(Nói với ông xe ôm)

- Bác uống gì? Trà nóng à?... Có ngay đây! Dạo này làm ăn thế nào? Hôm nay chạy xe được mấy chục nghìn? Chiều hôm qua thấy chở con bé cóc dầm ở đây đi đâu thế? Nhất bác đấy! Già đâu mà già! Già được như bác thì ai chả muốn già! Con bé chết rồi, bác không biết à? Nghĩ cũng tội! Con gái con đứa bây giờ hư hỏng thế đấy! Đâu phải như thời chúng mình bác nhỉ? Cứ là gọt đầu bôi vôi, thả rọ trôi sông... Gớm, bác cứ nói thế! Em chả dám! Nhưng mà hôm nào mát trời mời bác cứ qua nhà. Bác làm chén rượu cho ấm bụng nhá! Trời rét quá bác nhỉ? Giời mưa giời gió thế này chỉ chui vào chăn là thích...

Nàng không nghe thấy bất cứ một câu chuyện nào trong thành phố.
_________________
Quy Ẩn Luyện Kiếm
 

CongVoi

Super V.I.P
Mọi điều đều có vẻ hoàn hảo đối với người phụ nữ trẻ tuổi: từ công việc, con cái đến tình yêu đối với chồng. Nhưng câu chuyện bắt đầu từ khi người em trai chồng xuất hiện trong ngôi nhà của họ...

Em không định gì đâu. Nhưng không hiểu sao chiều nay em chả muốn về nhà gì cả. Bao nhiêu là chuyện. Chẳng muốn nói ra nhưng em cứ nghĩ thế này chắc em chết mất. Bạn bè em toàn đứa vô tâm vô tính. Nói ra chúng nó lại bảo mình rách việc. Cứ thích mua dây buộc mình. Mua rắc rối vào thân.


- Em uống nước chanh leo nhé. Cho nó bình tĩnh lại. Rồi nói với anh. Anh là cái hộp có thể giữ được vô khối bí mật trên đời. Anh vô hại như cát bụi thôi. Mấy khi em tìm đến với giới "thừa giấy vẽ voi". Ngành ngân hàng của em, thẻ nhân viên thị trường chứng khoán đâu phải thứ nghe rồi để đó. Đâu phải chuyện chơi. Anh kính phục em sát sàn sạt. Cho anh vào lãnh vực đó anh chết đứng như Từ Hải. Nào uống đi rồi từ từ kể cho thằng họa sĩ rách biết những gì đang làm cho cái máy rút tiền tự động phải chảy mồ hôi.


- Anh còn nói thế nữa em bỏ về liền!


- Thôi. Anh đùa. Bạn bè với nhau từ nhỏ còn chưa biết tính anh sao. Này. Uống nóng. Cái thứ quả lạ nhỉ! Gọi là chanh mà phảng phất mùi ổi chín. Ở đâu ra cái thứ quả quyến rũ này nhỉ!


Thiếu phụ tuổi hai nhăm trông ưu tư đón cốc nước quả từ gã đàn ông ăn mặc như giới trẻ theo đám híp hốp. Gã không tỉa tóc luống cày, không đội mũ len sụp hai tai, không quần thụng rách đầu gối, không đeo dây xích bạc như dây đeo cổ con chó trông nhà. Gã không làm vẻ bặm trợn hoặc khác đời như đám trẻ híp hốp, gã chỉ có vẻ quá tự tin đến mức như "kệ mẹ nó mọi sự". Bù lại hàm râu quai nón xanh xanh cái cằm vuông làm khuôn mặt gã đáng tin. Kiểu đàn ông làm ta có thể nói với anh ta chuyện con gián làm phiền ta trong bếp, con kiến đốt sưng đùi thằng bé nhà em. Nói những chuyện "thấp bé nhẹ cân" ấy mà không sợ anh ta thờ ơ cho là mình dở hơi. Có những người đàn ông làm bạn ta trong cả khi ta có chuyện không muốn nói với bạn gái. Người đàn ông với tâm hồn ngay thẳng, cái nhìn trong sáng là cực kỳ hiếm hoi trong thế giới máy móc sáng choang cái gì cũng tiện cần gì với tay ra là được ngay nhưng cô đơn đến độ không biết chia sẻ với ai cả khi vui. Cũng như lúc muốn khóc.


Thiếu phụ nghĩ miên man. Rồi làm như đang nói dở câu chuyện. Anh ạ. Mọi việc bắt đầu khi em trai chồng em tốt nghiệp đại học trong nam không xin được việc làm trong ấy. Ở Sài Gòn hai năm làm từ chân móc cống đến gánh vôi gạch vẫn không có chỗ dừng chân. Thế là chồng em bàn với em, em bảo cứ đưa chú ấy ra rồi tính. Anh em kẻ nam người bắc như thời chia cắt thế thì làm sao còn gọi là ruột thịt đùm bọc... Chú em chồng xách va-li ra. Thuê nhà trọ thì tốn lại vất vả. Em bảo chú ấy về ở với bọn em. Từ khi cưới nhau bây giờ em mới được gặp chú em. Gặp. Em lập tức thấy như mình cắn củ khoai sượng. Hai anh em họ, mọi nét giống nhau. Nhưng mọi vẻ lại khác nhau. Anh có biết rất nhiều trường hợp như thế không. Giống nhau. Gần như hai giọt nước. Nhưng một người ngồi trên núi cao. Một người là bần hàn như ngọn cỏ hôi. Em dùng chữ không đúng lắm. Nhưng anh có thấy thế không?


- Được rồi. Hiểu ý em rồi.


Nghèo. Không kiếm ra một xu. Nhưng lúc nào cũng tinh tướng. Hắn bảo với em: cái nghề của chị nghe thì có vẻ kêu. Nhưng ở cái xứ có một xu người ta cũng lận vào cạp váy thì bố ai ưa cái kiểu xem bảng chữ mua bán từng cắc. Nhìn mấy thằng làm trong thị trường chứng khoán mà xem. Chắc vài năm thằng nào cũng thần kinh. Chị cứ về làm nội trợ anh của tôi thừa sức nuôi. Đàn bà là phải ở trong bếp. Có thế mới sinh ra cái giống tóc dài chân mỏng như chân vịt.


Anh xem. Miệng lưỡi sắc như dao lam. Cái mặt hắn lúc ấy trông giống kiểu mặt gà mái. Em sởn cả gai ốc. Nhưng phận chị dâu thì phải làm. Em bảo: tháng này chị làm thêm được ít tiền. Chú cầm lấy tiêu vặt. Hắn dửng dưng tay đút túi. Thôi. Chị không phải bận tâm! Biết hắn sĩ diện hão, em để tiền trên nóc tủ lạnh. Lên gác, xuống đã thấy biến mất cái phong bì. Mấy lần như thế, mỗi lần một kiểu, hắn không có chút đàng hoàng nào. Trong nhà còn người này người kia. Đưa sao lại không lấy ngay. Sao cứ thích lén lút. Bữa ăn, hắn chê cái này, gẩy gót cái kia y như là nhà của hắn. Cứ như hắn sinh ra đời không phải để ăn những thứ vớ vẩn này. Miệng thì chê. Tay thì gắp. Bất kể món gì em làm ra đều bị hắn chê. Như tát vào mặt. Nhưng không có gì ghê sợ bằng cái này. Dỗi. Có chuyện gì đó hắn bỏ lên phòng. Gọi ra ăn cơm không ra. Nhưng khi mọi người đi ngủ hắn lần xuống bếp. Mở tủ lạnh. Rón rén như con gián. Có điều này. Hắn thích ở trong bếp. Như một thứ bệnh. Mỗi lần vào bếp thấy hắn, em không dám vào. Hắn như một mụ đàn bà. Hắn vơ bên này, lau bên kia, chân di di từng hạt bụi, tay đập, miệng càm ràm như lên đồng. Cô giúp việc của em sợ quá xin nghỉ một thời gian, giao hẳn cái bếp ấy cho hắn.


Mà hắn hôi hám. Anh ạ. Quần áo chồng em mua cho hàng tủ, ngày nào hắn cũng thay. Nhưng đứng cạnh hắn em không chịu nổi. Hắn như các bà nằm ổ rơm ngày xưa. Ăn cao rắn cao dê cao ngựa. Người lúc nào cũng bốc mùi lợm mửa. Chồng em thì vô tâm vô tư. Chịu được thằng em. Anh ấy không hề nghĩ đến là em không thể can đảm nổi... Mà sao anh lại thở dài?


Thiếu phụ hỏi gã họa sĩ đang uống cà-phê. Gã cười cười như đang nghĩ tới phần đáng nói của câu chuyện.


- Em cứ kể phần sau đi. Anh đoán ra một nửa rồi.


- Anh cứ làm như tinh lắm. Còn lâu.


- Thì kể tiếp đi!


Thiếu phụ ngồi thừ ra. Như không biết làm sao xua nổi ác cảm đang lớn dần lên nữa trong tâm hồn mình.


Thằng cu nhà em đã được hai tuổi rồi. Cháu hay về bên ngoại. Em và chồng em vẫn sống như một đôi yêu nhau. Nhất là trong những đêm mùa đông. Anh ấy khỏe mạnh. Sạch sẽ. Nồng nàn. Như giới trẻ họ vẫn hát đấy. Nồng nàn, lúc nào cũng làm em không thở được. Mỗi bận là một cái gì mới. Không bao giờ lặp lại. Nhiều khi chồng em ngủ rồi, em nằm ngắm khuôn mặt anh ấy, phát khóc lên vì thấy mình may mắn hạnh phúc. Đi làm căng thẳng. Nhưng mỗi khi có chút thời gian, em đều nghĩ tới một đêm sắp tới với chồng. Được nghe tiếng thở, được xoa bàn tay lên cái lưng đẫm mồ hôi của anh ấy... Nói tóm, em yêu chồng đến độ mỗi đêm với em là được vào một vũ điệu mới. Tất cả trôi đi như trong điệu van. Nói văn vẻ thì như thế. Nhưng nó hay hơn thế nhiều.


- Được rồi. Anh hiểu rồi. Nghe em nói mà anh cũng nóng bừng cả người lên đây!


Nhưng từ khi chú em chồng vào ở trong nhà em, không hiểu vì sao lại xảy ra nông nỗi này. Mỗi khi chồng em theo thói quen kéo em vào lòng, người em run bắn lên vì sợ hãi. Em ghê tởm. Cảm giác ghê tởm tràn ngập toàn thân. Người em, khô đi, khô từ ngón tay, từ sợi tóc. Em không còn một chút cảm xúc nào.


Thiếu phụ bưng mặt. Không khóc nhưng sự thổn thức như con sóng làm thân thể nàng như xốp đi, nhẹ bỗng, có thể tan biến.


Cứ mỗi lần nghe anh ấy thở, mỗi lần ngón tay anh ấy theo thói quen dạo trên da thịt em, em lại nghĩ tới hắn - Chú em chồng. Em nghĩ hai anh em đã sinh ra từ trong một buồng trứng. Từng bú một bầu vú, một dòng sữa. Từng chơi với nhau từ nhỏ xíu. Sao chồng em không ngửi thấy mồ hôi toát ra từ con người kinh sợ ấy đang đầu độc không khí? Nghe nói những kẻ keo bẩn, bần tiện, ngu xuẩn, độc ác... thường có mùi rất nặng. Nghĩ đi rồi nghĩ lại. Suy xét, em lại thấy gã em chồng em đáng thương. Đáng thương quá. Vì mặc cảm nghèo, thua thiệt nên thường tỏ ra coi khinh mọi giá trị trên trái đất. Hắn chê từ cụ danh nhân nào đó có học vấn trên trời cho đến anh trí thức mua bằng trong xóm. Hắn chê tuốt mọi thành tựu. Cái gì hắn cũng bĩu môi xem như của rẻ. Cái gì cũng xem khinh. Hắn đáng thương như mấy anh trai làng chỉ nhìn thấy bờ ao xem thiên hạ như bụi cỏ.


Nhưng cảm giác ghê sợ hắn gây ra làm em tắc thở mỗi khi nằm trong chăn với chồng. Thân thể em chống lại quyết liệt dù lý trí em bảo rằng như thế là rất hỏng. Không được như thế. Đã hơn một tháng rồi em sợ mỗi khi tắt đèn. Em nghĩ cứ thế này mãi chắc điên... Nên, hôm nay em chả muốn về nhà. Gã em chồng em chuyển đi rồi anh ạ. Được năm hôm. Chồng em chắc có đọc được cái gì đó nên đã thuê nhà cho hắn. Xin cho hắn một việc làm có kỳ hạn để đủ tiền thuê nhà, tiền ăn.


- Hắn chuyển đi rồi nhưng mọi việc vẫn thế chứ gì?


Vâng. Em biết là trong nhà không có hắn nữa. Nhưng cái sự anh em ruột nó cứ ám ảnh em. Em nghĩ hay em cũng đã thành con bệnh. Chồng em mấy hôm đầu khi em nguội ngắt, có vẻ ngạc nhiên. Dần dần anh ấy nghi. Em bắt gặp anh ấy tìm cả trong túi đi làm của em xem có gì lạ. Ngửi cả khăn quàng của em. Có lần còn theo em lúc em đi sang nhà mẹ đón thằng bé. Mắt của anh ấy nhìn em thế nào em biết. Nhưng em vẫn không thể nào mềm lại trong tay anh ấy nữa. Hôm qua, lúc nửa đêm em thức dậy thấy anh ấy nằm nhìn trân trân lên trần nhà. Rồi anh ấy nói, đủng đỉnh, như là nghĩ từ lâu lắm ấy. Anh ấy bảo em nghĩ em là ai cơ chứ? Em là một trong hàng ngàn những con vẹt công nghệ. Bắt chước của người ta tài tình thế, máy móc giỏi thế, tiếng nói của người ta cũng nhai lại sành điệu thế, nhưng để biết quý trọng những gì trời cho một cách may mắn thì không. Em nghĩ tình yêu nó tự đến với em đấy à? Hay em hỏng... chi tiết nào trong cái máy người của em rồi...?


Anh ạ, em bị sốc. Khi anh ấy gọi em là con vẹt của công nghệ. Hôm nay em không muốn về nhà, lạ thế đấy. Em đâu phải con vẹt của công nghệ. Nếu như anh ấy biết vì sao...


- Ấy ấy. Đừng nói điều đó ra. Em ruột nghĩa là bản thân anh ta đấy. Em cứ bịa ra một lý do gì đó. Còn cái vụ kia, cái sự liên tưởng kỳ lạ kia, anh nghĩ rồi nó sẽ nhạt dần đi...


Em không biết nó sẽ như thế nào. Nhưng gã em trai của anh ấy làm sao bằng anh ấy được. Nguyên cái việc anh ấy gọi em là con vẹt công nghệ, em cũng thấy nể rồi. Gã em trai anh ấy chỉ biết thô lỗ vì thấy mình thấp kém, thấy ghen tị với chung quanh. Chồng em không phải như thế. Ồ, em nghĩ lại rồi. Anh ấy hay bao nhiêu ấy chứ.


Gã họa sĩ nheo nheo mắt nhìn thiếu phụ. Gã nhắc, giọng như nói với đứa trẻ đang muốn vứt đi con búp bê đầu tiên:


- Mà anh ấy lại khỏe mạnh. Nồng nàn. Nhất là trong những đêm mùa đông. Phải không?


Thôi em đi về đây anh ạ. Giờ này chắc chồng em đã về rồi. Em phải qua chợ mua ít thức ăn nữa.


Gã họa sĩ nhìn trời, nói trống không:


- Hôm nay lạnh lắm đấy. Ta nhen bếp lửa, ta lồng tấm chăn - gã cao hứng đọc thơ - thứ thơ tha thiết của thời tinh khiết bây giờ đọc lên người ta bảo đồ dở hơi nhưng câu chuyện của "con vẹt công nghệ" làm gã vừa buồn vừa hoang mang. Thực ra người ta cũng chả phải nguội từ tim gan nguội ra. Người ngợm bao giờ chả xưa như trái đất.
 

CongVoi

Super V.I.P
Một Mối Tình
Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê. Má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh. Tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu...". Tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho. Mà, má nè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má?". Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con nầy, lần nào về cũng hỏi có mỗi chuyện đó...". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ủa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?
Tôi ngủ lưng một giấc, bánh chín, một tay tôi bưng rổ bánh, tay kia xách cây dầm xuống bến. Có xa xôi gì đâu, từ nhà tôi bơi dọc theo rạch Ô Môi, ngược lên hướng mặt trời mọc chừng trăm thước là đã tới nhà Trọng rồi, nhà trồng nhiều thiệt nhiều cây ô môi, bông đỏ, lá xanh, trái chín không ai ăn, tụi con nít móc xuống làm gươm đánh nhau chan chát. Hai bên đầu nhà trồng toàn vú sữa, cao lớn lắm, già lắm, cỗi cằn lắm, lâu rày không thấy có trái trăng gì hết. Dưới mé kinh còn nguyên một đám nga cao ngòng. Mà, hết cái xóm kinh nầy có ai có cái nhà vừa cũ, vừa xưa như nhà Trọng đâu.
Ở nhà Trọng, có nhiều thứ mấy chục năm rồi không thay đổi. Cảnh cũ giữ nguyên đã đành, tánh tình lớp người sau cũng y chang người trước, như từ một khuôn đúc ra. Như Trọng vậy, mười năm, kể từ ngày chị Ái tôi bỏ Trọng đi, Trọng vẫn giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng với cái kiếng soi để ở đầu giường như thể chị Hai tôi vẫn còn ở đâu đây, như thể chút nữa khi tắm xong, chị sẽ bước vào, chải đầu, rồi vừa nghiêng đầu, vừa quạt hong khô tóc bên cái cửa buồng trông ra hàng lơn nước, chỉ cần một cơn gió nhẹ, lá vú sữa khô nằm trên mái nhà sẽ tuôn xuống như mưa.
Sao tôi lúc nào cũng thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết một mùa nắng. Nhất là khi nghe Trọng biểu thằng Bầu ở nhà bắc nồi cơm để anh đi nhổ vài cọng bông súng nấu canh với mấy con cá vừa thả câu được hồi hôm. Tôi hỏi, đám trái giác ngoài bờ liếp còn không, thằng Bầu nói còn. "Vậy anh Hai hái giùm em một mớ nấu chua ăn, thèm quá chừng", tôi dặn với theo. Rồi Trọng quay lưng đi, không để cho tôi kịp nhìn anh kỹ; nhưng thật thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ ở đây một hồi, thể nào không nén lòng tôi cũng ôm chầm lấy anh mà khóc. Trời ơi, cảnh nầy, người nầy, sao y chang như năm ngoái, năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn bộn lên, và mớ tóc bạc trên đầu Trọng là thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi mình lòng đang nghĩ đến cái gì mà lòng đau quá vậy cà.
Chị Ái, tôi với Trọng cùng một đám con trai con gái nữa lớn lên cùng nhau trên cái xóm rạch Ô Môi nầy. Cỡ mười bảy, mười tám tuổi, thấy Trọng thương quá, tôi nói chơi chơi với chị Ái: "Em xí thằng Trọng". Chị tôi cười ngất, xong trề môi như đưa đò "người ta mà em làm như trái bình bát chín cây vậy, bày đặt xí phần". Ba Trọng mất sớm, má đi lấy chồng ít về, từ nhỏ Trọng sống với ông nội, mười tuổi, ông nội cũng mất, đang ở tuổi con nít chưa hết con nít, người lớn cũng chưa tới người lớn, anh đã gánh vác trọng trách lo hương hoả cho gia đình. Một mình, với hai con chó, một con mèo, học xong, Trọng còn phải quần quật với chín công ruộng, một mảnh vườn đất cằn cỗi, già nua, lâu rày không thu được huê lợi gì, nhưng quý là trên đó chôn cả thảy chín cái mả ông bà, và ngôi nhà gạch đã có 3 đời, cất trên nền cao theo kiểu chữ công, ba gian nhà rộng mênh mông trông ra cái sân gạch trơn rêu, mút sân là cái hàng rào giăng ngang, đứng dưới mé sông nhìn lên, dãy rào che tầm nhìn, chỉ thấy thấp thoáng mái ngói lợp trài màu vừa xanh vừa mốc.
Nhà Trọng có một cái lạ nữa là trên bàn thờ lúc nào cũng chong đèn, ngày tháng nầy qua ngày tháng khác, năm nầy qua năm khác, ngọn đèn truyền thống từ đời cố Trọng, nội rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt. Chiều nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn hột vịt ám khói, châm dầu bằng cái vẻ mặt thành kính, nâng niu. Lúc đó, tôi ước thầm, phải chi Trọng ngỏ lời thương, tôi sẽ làm hết thảy công việc đó thay Trọng đến suốt đời, đến khi trở thành bà già cóc kiết, tôi giữ lửa thì hay phải biết. Nhưng Trọng thì lại thích chị Ái hơn tôi, Trọng thương thầm chị cũng nhiều như tôi thương thầm anh vậy. Vậy mà anh không biết, còn cắc cớ biểu tôi làm mai. Nên có bữa, tôi hỏi má cho hai chị em đi coi hát, tới cái đập vô xóm Chẹt, Trọng đã bồn chồn chờ sẵn, tôi trao chị cho anh, giả đò đau chân để tụt lại đằng sau một khoảng xa xa. Tới sân uỷ ban xã, Trọng với chị tôi mua vé vào coi hát, tôi ngồi ngoài đầu cầu, đập muỗi. Trọng không quên mua cho tôi một ly đá bào như để cảm ơn lắm lắm. Ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu đẻ, nhưng nước mắt tôi chảy ròng ròng lúc nào không biết. Vài người trong đoàn hát thấy, họ hỏi, sao khóc mò vậy, tôi cười thưa, tại tuồng cải lương hay quá. Họ cười, sao nhạy nước mắt vậy, đi hát đi, đem nước mắt mình ra để lấy nước mắt người ta.
Tôi thưa má cho lên thị xã xin vô Đoàn Cải lương Bông Tràm, lang thang nguyên một mùa nắng, mùa mưa về thăm má. Cũng có lúc gặp Trọng, kêu anh Hai ơi, anh Hai à, tuồng như anh em một nhà thương nhau lắm (ai mà biết có thương thiệt). Cũng có lúc viện cớ qua nhà thăm nom thằng Bầu, ôm nó lên, nựng nịu, đả đớt, coi nó giống Trọng ở chỗ nào, mà giống chỗ nào tôi cũng ưa. Cũng có lúc ngồi trân trân ngó chị Ái tôi mặc áo đỏ, chân xỏ guốc cao đi ngúc ngắc trong nhà, thấy không hợp mà cũng không muốn nói ra. Chị thì lại nhìn tôi, săm soi guốc giày, quần áo tôi rồi tấm tắc, "Em sướng thiệt...". Tôi cười, "Chị cũng sướng thấy mồ, anh Trọng hiền khô, lại thương vợ...". Chị cười nhẹ, "Thương thôi thì được cái gì. Chị không hợp với cảnh nhà nầy, thầy Thành nói vậy...". Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị cười, thầy mới về dạy ở trường xã mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng chuyện gì khó, con gái xứ nầy giỏi giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy bảo, xứ nầy không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đi. Gì mà ngày nào cũng giống y ngày nấy, hổng thấy thay đổi gì hết trơn".
Vậy rồi tôi lại đi, một bữa má tôi lên thăm, mới bước chân tới cửa đã vừa nói vừa khóc: "Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy, má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời nầy má không coi nó là con má nữa". Rồi má hỉ mũi cái rột: "Con coi kỹ, có phải cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được?". Tôi không trả lời, Trọng mà rước tôi về bên ấy, chừng nào tôi bỏ đi.
Trời Ô Môi rộng vô cùng, đất thênh thang vô cùng bởi những khoảng trống mà chị Hai tôi bỏ lại. Má tôi xấu hổ vì con gái một dạ hai lòng, nhà có gì ăn cũng chắt chiu cho cha con Trọng, như bù đắp nỗi đau, nỗi thiệt thòi. Tôi cười thầm má tôi hoài, buồng chuối xiêm, trái mướp, nắm rau với mấy cái bánh con con làm sao bù đắp nổi một con người, sao má tôi không đem tôi qua bển để đền, tôi hy sinh liền cho má coi. Nhưng từ lúc chị Ái tôi bỏ đi, cứ mỗi lần qua nhà, Trọng lánh đi chỗ khác. Tôi buồn, trách. Thằng Bầu mới sáu tuổi nhưng đã trở thành xướng ngôn viên cho ba nó, nó biểu: "Dì út đừng có giận, ba con nói dì giống má con quá, nhìn dì, ba con chịu hổng nổi".
Mười năm rồi, không biết đã thay đổi gì chưa. Tôi hỏi thằng Bầu lúc rày ba nó làm gì mà đen thui vậy. Thằng Bầu nói, hết mùa, ba nó chạy xuồng ra bến đò ngoài thị trấn chạy đò dọc. Nhiều công chuyện lắm, ba con nó còn coi sóc cái rẫy khóm ngoài liếp nữa.
Trọng không nghèo, nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi nhà đã bệu rệu. Mối mọt, bù xè thi nhau tấn công vào những cây cột gỗ, bộ ngựa chân quỳ, mấy cái tủ thờ, trường kỷ. Tôi nằm nghe rõ ràng tiếng bù xè nhai cây trèo trẹo. Thằng Bầu nói con mèo mướp càng già càng tệ, mỗi lần bắt được một con chuột là mỗi lần làm ngói rớt xuống, bể tan nát. Thật ra, với tài bươn chải, tháo vát, tằn tiện, lại thêm má tôi giúp đỡ, Trọng có thể cất được một cái nhà khác, gọn gàng, vừa đủ để ở.
Tôi nói gần xa, chê chỗ nầy cây mục, chỗ kia kèo sắt gãy. Trọng nói anh cũng lo không biết căn nhà có qua nổi mùa mưa năm nay không. Không biết cha con anh có còn giữ gìn được những bức liễn chạm trổ cầu kỳ, những bức tranh vẽ cảnh đồng quê, trời đất, trâu bò, trẻ con hiền hoà, những tờ giấy dán tường vẽ truyện Trầu Cau, truyện Tấm Cám, rồi cái giường, căn buồng, cái ngạch cửa... Bữa nào mưa lớn, hai cha con cũng chạy xất bất xang bang. Tôi hỏi chạy làm gì, thằng Bầu cười: "Chạy đi lấy đồ hứng nước dột đó, dì Út". Tôi cười:
- Anh Hai à, để vầy hoài đâu có được, thôi, cất nhà mới cho rồi, ông bà mình rồi cũng hiểu cho mình chớ chấp nhứt gì.
Trọng chỉ cười nhẹ, ngó ra khoảng sân nắng. Thằng Bầu cười: "Dì Út giống hệt ngoại, biểu y chang. Ba con nói với con hoài, ba con hỏng muốn thay đổi gì hết, để má con nhớ được đường, nhớ được nhà mà về".
Trời ơi, tới bây giờ, Trọng còn mong một ngày như thế, cái ngày mà chị tôi sẽ trở về. Chị sẽ về ư? Sẽ về à? Không biết! Chỉ biết anh giữ nguyên cảnh cũ nhà xưa là để chờ người đang sống. Tự nhiên trong bụng tôi thấy rầu. Bầu lại tròn con mắt: "Để con nấu cơm đãi dì Út một bữa, mà, chút xíu nữa cơm chín rồi, dì ở lại ăn cơm với hai ba con, trừ ngoại ra, lâu lắm nhà con mới mời cơm được một người".
Càng lớn, thằng Bầu càng giống Trọng, tử tế, đàng hoàng lại pha thêm một chút gàn gàn. Bữa giỗ, Trọng uống hơi nhiều, nó ngồi kế bên nhắc: "Ba, ông cố nói, uống rượu có chừng thôi, uống ít còn nhiều, uống nhiều là mất hết đó". Cao hứng cỡ nào Trọng cũng ngưng lại ngay đó, ai cũng lạ khi thấy thằng con nói vậy mà cha cũng nghe.
Bây giờ, Bầu vừa bước qua tuổi mười lăm, chưa chắc nó nhớ chuyện cũ. Hai dì cháu lụi hụi trong bếp, tôi hỏi, "Bầu, còn nhớ má hôn con?", nó ngần ngừ một lúc, nhìn quanh, rồi nó thầm thì "Con cũng hổng biết, chắc là không. Nhưng nói thiệt, con sợ ba buồn... Hồi má đi, con mới chút tẳn chớ gì...". Nó nói, có má cũng được, mà không có cũng được. Bây giờ quần áo rách, nó tự may được rồi, nhà cửa nó cũng dọn dẹp gọn bân nhưng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện... Tôi hỏi chuyện gì, nó cười, bẽn lẽn, dường như những câu chuyện đó người ta chỉ dành để nói với má người ta. Tôi thương nó chút nữa đã ghì đầu nó ôm vào ngực. Chợt nó hỏi:
- Sao dì Út không lấy chồng, dì ở vậy hoài, bà ngoại rầu lắm đó.
- Dì còn phải đi hát.
- Đi hát vui hơn lấy chồng hả dì?
Tôi cười, lấy chồng vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìa. Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc là vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc đang hát trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô nhà... Và để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ, dì chỉ ước có vai bình thường vậy...
Trọng đang nằm võng, tôi nghe nhịp đưa vùn vụt rồi cò kẹt dùng dằng chậm lại, tôi biết anh có nghe lời tôi nói. Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kỳ lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy ao. Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như giữ vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị Hai có về, tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì.
Mà, trời ơi, Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top