• Hiện tại trang web đang trong quá hình chuyển đổi và tái cấu trúc lại chuyên mục nên có thể một vài chức năng chưa hoàn thiện, một số bài viết và chuyên mục sẽ thay đổi. Nếu sự thay đổi này làm bạn phiền lòng, mong bạn thông cảm. Chúng tôi luôn hoan nghênh mọi ý kiến đóng góp để chúng tôi hoàn thiện và phát triển. Cảm ơn

Thông tin thiết bị số và công nghệ ngày 11-08-2009

Status
Không mở trả lời sau này.

PhuongNguyen

Well-Known Member
So sánh SSD và HDD

Sự cố về ổ cứng là vấn đề thường thấy với máy tính nhưng SSD lại khác. Các chip nhớ flash thông thường có thể ghi/xóa 300.000 lần.
> SSD và HDD, chọn ổ nào?

sanh1.jpg


Ổ SSD bền hơn ổ cứng. Ảnh: Dvhardware.

Sự cố về ổ cứng là vấn đề thường thấy với cả desktop và laptop. Hệ quả nguy hiểm nhất là việc mất đi nhiều dữ liệu quý giá của người sử dụng. Với ổ cứng HDD, một thiết bị cơ điện tử, phần cơ qua năm tháng vận hành sẽ mòn dần và dẫn đến sự cố. Thời gian làm việc tối ưu nhất đối với ổ cứng HDD là khoảng 4 năm.

Ổ ứng SSD lại khác. Các chip nhớ flash thông thường có thể ghi/xóa 300.000 lần và với loại chip nhớ flash tốt nhất tuổi thọ lên đến 1.000.000 lần ghi/xóa. Bên cạnh đó, các nhà sản xuất ổ SSD cũng sử dụng nhiều giải pháp khác để kéo dài tuổi thọ. Vì thế, một ổ cứng SSD có thể sử dụng tốt trong nhiều năm nhưng còn phụ thuộc vào dung lượng đĩa.

Tốc độ

Thời gian truy nhập trung bình của ổ SSD là từ 3,5 - 10 micro giây còn ổ HDD mất 5 - 10 mili giây. Dễ nhận thấy, tốc độ ổ SSD nhanh hơn ổ HDD đến cả trăm lần. Nhưng một câu hỏi đặt ra là tốc độ vượt trội trên của ổ SSD có ích lợi gì trong khi hệ thống máy tính lại chưa thể hỗ trợ tốc độ đó?
Sự "tiến hóa" của vi xử lý trung tâm (CPU) đã vượt xa sự phát triển hệ thống lưu trữ dữ liệu. Vì vậy ổ HDD nhiều khi sẽ "kìm hãm" hiệu năng "tiềm tàng" của hệ thống máy mạnh bởi không theo kịp tốc độ xử lý của các phần cứng khác, đặc biệt là CPU.

Việc thay thế ổ HDD bằng ổ SSD, hiệu năng hệ thống chắc chắn sẽ được cải thiện đáng kể.

Kích cỡ

Được phát triển và sản xuất với mục đích dần thay thế cho ổ cứng HDD truyền thống nên ổ SSD cũng có hai loại, kích cỡ tiêu chuẩn 2,5 inch và 3,5 inch. Tương tự, ổ SSD 2,5 inch được sử dụng chủ yếu cho laptop, và ổ 3,5 inch là cho máy bàn – desktop, hệ thống lưu trữ trong các loại máy chủ server. Song kích thước và trọng lượng của ổ SSD nhẹ hơn so với ổ HDD, vì vậy sẽ phù hợp hơn cho các hệ thống máy nhỏ gọn.

sanh2.jpg


Về độ tin cậy, ổ SSD lại hơn điểm HDD. Ảnh: Fosfor.

Độ tin cậy

Xét về độ tin cậy, ổ cứng HDD kém hơn so với ổ thể rắn SSD. Chính việc sử dụng đầu đọc/ghi chuyển động cơ học và các phiến đĩa quay tròn là yếu tố làm giảm độ tin cậy ở ổ HDD. Trong những môi trường ứng dụng di động đòi hỏi độ an toàn cao cho dữ liệu, chắc chắn ổ SSD sẽ là lựa chọn tốt hơn. Ổ SSD còn có khả năng chống sốc và chịu lực tốt. Đây cũng là những ưu điểm khiến nhiều lĩnh vực có đặc thù riêng như quân sự lựa chọn loại ổ cứng này. Đặc biệt ổ SSD còn có thể lưu trữ được trong môi trường khắc nghiệt với nhiệt độ từ - 60oC đến + 95oC.

Điện năng tiêu thụ và tỏa nhiệt

So với ổ HDD, ổ SSD tiết kiệm điện hơn bởi vì không cần thêm điện năng để làm quay các phiến đĩa và dịch chuyển đầu đọc/ghi và mát hơn. Chính vì vậy đây là lựa chọn phù hợp hơn cho nhu cầu của các công ty lưu trữ dữ liệu, thêm vào đó còn tiết kiệm hơn khi không cần đến các hệ thống tản nhiệt, làm mát tốn kém.

Giá cả

Với nhiều ưu điểm và tính năng vượt trội hơn, SSD vì thế cũng đắt tiền hơn nhiều so với HDD truyền thống. Đây chính là lợi thế cạnh tranh khiến ổ HDD vẫn là lựa chọn chủ yếu của người sử dụng, và giá thành cao cũng là rào cản lớn khiến SSD chưa thể được sử dụng rộng rãi. Loại ổ ghi mới này chủ yếu được sử dụng trong lĩnh vực quân sự và các nghành công nghiệp đòi hỏi sự độ toàn dữ liệu cao.

Các nhà phân tích đã nhận định, khoảng cách về giá giữa ổ đĩa cứng HDD truyền thống và ổ cứng thể rắn SSD mới sẽ ngày càng thu hẹp. Bên cạnh đó, việc các tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp chế tạo ổ cứng đang đổ dồn tiền của và công sức vào nghiên cứu sản xuất, cải thiện bộ nhớ SSD nên triển vọng thay thế ổ HDD là không xa. Song, hiện tại, những ưu điểm và tính năng nổi trội của ổ SSD vẫn chưa thể "đánh bại" lợi thế giá rẻ của ổ HDD.

Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Bản Satellite L300 mới giá rẻ

Phiên bản Toshiba Satellite L300 mới với vỏ bóng khắc vân chìm, màn hình gương siêu sáng 15,4 inch chuẩn 16:9 và giá chỉ khoảng 11 triệu đồng.

sat1.jpg


Toshiba Satellite L300 giá khoảng 11 triệu đồng. Ảnh: Digiworld.

Satellite L300 phiên bản mới nổi bật với vỏ bóng khắc vân chìm, có khả năng chống chầy xước, thay thế cho màu xám bạc trước đó. Máy mang màn hình gương ứng dụng công nghệ siêu sáng, Clear SuperView, 15,4 inch chuẩn 16:9.

Không chỉ thay đổi về hình thức, L300 mới này còn có nhiều cải tiến về cấu hình với bộ vi xử lý Intel Core 2 Duo T6500 (L300 – S502), hay Intel Pentium Dual-Core T4300 (L300 – P503). Bộ nhớ RAM từ 1 GB đến 2 GB và có thể tăng tối đa lên đến 8 GB DDR2 800 MHz, dung lượng ổ cứng 250 GB có khả năng chống sốc cao.

Ngoài ra, sản phẩm vẫn duy trì công nghệ của Toshiba, như hệ thống nhận diện khuôn mặt SmartFace (phiên bản mới nhất) hay trang bị đầu đọc ghi đa định dạng (DVD-RW SuperMulti Double Layer Drive), đầu đọc thẻ nhớ 5 trong 1, cổng giao tiếp hỗ trợ đến 3 USB, ExpressCard 54, card đồ họa onboard GMA 4500MHD.

Chiếc laptop này giá chỉ khoảng 11 triệu đồng (629 USD) kèm chuột không dây Logitech M305 trị giá 670.000 đồng.
* Xem cấu hình máy.

Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
IdeaPad U350 - siêu di động 'bình dân'

Lenovo IdeaPad U350 khả năng thực thi nhỉnh hơn netbook nhưng giá bán phải chăng hơn những mẫu máy siêu di động đắt tiền.

IdeaPad U350 có trọng lượng tương đương các mẫu netbook, máy nặng chưa đầy 1,3 kg, nhưng giá bán lại cao hơn một chút, khoảng 850 USD. Máy mang lại không gian làm việc rộng rãi với màn hình lớn cùng khả năng thực thi tốt hơn netbook. Tuy nhiên, thời lượng pin chỉ bằng phân nửa các mẫu siêu di động 13 inch.

id1.jpg


IdeaPad U350 màn hình 13,1 inch. Ảnh: iTechnews.

IdeaPad U350 có thiết kế tương tự mẫu máy siêu di động "bình dân" MSI X340.
Thân máy chưa đến 3 cm, nơi mỏng nhất là 19,8 mm, và trọng lượng khoảng 1,63 kg kèm pin. Vỏ bằng nhựa plastic màu đen khá bắt mắt nhờ các họa tiết trang trí hình thoi đan xen và đường kẻ chéo cách điệu. Thiết kế này của Lenovo không quá hoa mỹ nhưng vẫn làm nổi bật thân máy mỏng, vỏ máy đẹp, chắn chắn mà không in dấu vân tay khi sử dụng.

Bàn phím màu đen bao ngoài là vùng nghỉ tay và touch pad bằng nhôm mài nhẵn sáng bóng. IdeaPad U350 sử dụng bàn phím kích thước tiêu chuẩn với các phím bấm thoải mái nhưng lại thiếu phím điều khiển đa phương tiện riêng biệt. Khi thử nghiệm thì thấy phím ở trung tâm lại hơi nảy hơn ở phía ngoài. Touch pad lớn hơn so với kích thước tiêu chuẩn của dòng máy siêu di động, với chiều dài và rộng tương ứng là 83 x 51 mm (3,25 x 2 inch). Đây là touch pad thế hệ mới với tính năng hỗ trợ cử động của hai đầu ngón tay để phóng to, thu nhỏ và xoay ảnh cùng một số các ứng dụng khác.

id2.jpg


Vỏ màu đen với họa tiết đan xen. Ảnh: Laptop-advices.

Trong mức giá 800 USD, bên cạnh touch pad đời mới, U350 còn sở hữu nhiều tính năng cao cấp. Không gian lưu trữ rộng rãi với ổ cứng HDD 320 GB, được trang bị công nghệ chống sốc và bảo vệ dữ liệu đặc biệt, khi máy bị rơi hay va đập mạnh, các đầu đọc/ghi trên ổ cứng sẽ được giữ yên để đảm bảo an toàn dữ liệu. Ngoài ra máy còn sở hữu màn hình đèn LED nền với cảm biến ánh sáng tự động điều chỉnh độ sáng màn hình khi ánh sáng ngoài môi trường thay đổi. Thêm cổng HDMI bên cạnh các cổng giao tiếp và kết nối cơ bản gồm VGA, LAN, Wi-Fi, Bluetooth, 3 cổng USB, đầu đọc thẻ nhớ SD/MMC, giắc Micro/Headphone. Nhưng vì thiết kế nhỏ gọn nên không có không gian thêm dành cho khe cắm các thẻ mở rộng ExpressCard. Ngoài ra, U350 không có ổ đĩa quang tích hợp, người dùng sẽ phải tự trang bị thêm ổ quang gắn ngoài qua cổng USB nếu có nhu cầu sử dụng.

Màn hình gương 13,3 inch với đèn LED nền của U350 cho hình ảnh sáng rõ, màu sắc rực rỡ. Không chỉ hiển thị trung thực màu sắc khi chạy các ứng dụng trên nền hệ điều hành Windows hay xem ảnh số, khi xem phim cũng rất tuyệt, hình ảnh mang màu sắc tự nhiên rất thực nhờ khả năng phối màu tốt của tấm nền màn. Độ phân giải 1.366 x 768 pixel rất hợp lý, không chỉ cho những thước phim đẹp, các ký tự hiển thị đủ lớn, rất rõ. Tính năng giải trí của U350 được nâng cao với hệ thống loa đôi Dolby Sound Room khuếch đại âm bass.

Webcam 1,3 Megapixel hơi mờ và chỉ hoạt động tốt trong môi trường nhiều ánh sáng. Lenovo cũng cài sẵn trên máy tiện ích EasyCapture dùng kèm Webcam để chụp hình, và người sử dụng có thể lựa chọn nhiều tính năng của phần mềm này đi kèm ảnh chụp như thêm khung hình, các nhân vật hoạt hình hay các hiệu ừng hình ảnh khác.

id3.jpg


IdeaPad U350 dùng vi xử lý Intel Pentium SU2700. Ảnh: Laptoping.
IdeaPad U350 được trang bị vi xử lý tiết kiệm điện năng Intel Pentium SU2700, bộ nhớ RAM 3 GB. Nếu chọn RAM 2 GB, giá máy giảm 100 USD. Vi xử lý Intel Pentium SU2700 1,3 GHz mạnh hơn hẳn so với các mẫu Intel Atom trên netbook, nhưng không thể so sánh với chip Intel Core 2 Duo phổ biến trong các dòng laptop hiện tại. U350 đạt 1.512 điểm trong thử nghiệm PCMark Vantage đánh giá hiệu năng hệ thống. Điểm số này chỉ bằng một nửa kết quả thử nghiệm ở các mẫu laptop siêu di động có mức giá tầm 2.000 USD, nhưng tương đương với hai "đối thủ" HP Pavilion dv2 (1.566) và MSI X340 (1.628) trong phân khúc máy siêu di động "bình dân".

id4.jpg


Bảng đánh giá hiệu năng hệ thống. Tương tự, kết quả đánh giá sức mạnh xử lý CPU với Cinebench 10 được 1.356 điểm, trong khi HP Pavilion dv2 được 1.406 điểm và nhỉnh hơn MSI X340 (1.514 điểm). Mức điểm này cũng chỉ bằng phân nửa mức trung bình của laptop siêu di động nói chung. Tuy nhiên, các kết quả trên đều gấp đôi so với kết quả thử nghiệm trên netbook.

id5.jpg


Đánh giá sức mạnh vi xử lý CPU. Trên phương diện thực thi xử lý đa phương tiện, U350 lại tỏ ra khá "ì ạch" khi mất tới 22 phút để chuyển định dạng file video xác định với phần mềm Windows Media Encoder 9, chậm hơn 5 phút so với mức trung bình ở netbook, và cũng chậm hơn cả HP dv2 (23 phút) và MSI X340 (19 phút). Quá trình xử lý các file âm thanh có khá hơn, U350 cần 9 phút 44 giây để hoàn thành thử nghiệm chuyển định dạng nhạc với iTunes, chậm hơn so với HP dv2 (8 phút 52 giây) và MSI X340 (8 phút 51 giây). Song kết quả này thể hiện đúng vị trí của U350 trong phân khúc máy nằm giữa netbook và laptop siêu di động cao cấp.

id6.jpg


Đánh giá khả năng đồ họa. Khả năng đồ họa với card tích hợp Intel GMA X4500 vừa đủ cho các hiệu ứng Aero của hệ điều hành Windows Vista và chơi một số Game 3D "hạng nhẹ". Khá bất ngờ khi U350 đạt 670 điểm trong thử nghiệm 3DMark06, không quá cách biệt mức trung bình 888 điểm của phân khúc máy siêu di động.

U350 sử dụng pin 4-cell, giảm bớt trọng lượng, nhưng vẫn có thể xem video liên tục trong 2 giờ 26 phút, thua xa mức trung bình khoảng 4 giờ của netbook.

Tại Việt Nam, phiên bản sử dụng chip SU2700 1,3 GHz, RAM 2 GB, HDD 250 GB, VGA Intel GMA 4500MHD giá khoảng 850 USD.

Ưu điểm

- Giá phải chăng
- Mỏng và nhẹ
- Thiết kế đẹp
- Công nghệ bảo vệ ổ cứng an toàn
- Màn hình đèn LED nền màu sắc rực rỡ

Nhược điểm


- Bỏ qua ổ quang
- Khả năng thực thi trung bình
- Không có các phím đa phương tiện riêng biệt
- Thời lượng dùng pin ngắn
Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Ống zoom ngày một 'nhanh' hơn

Các ống zoom thế hệ mới đang có xu hướng được sản xuất với chất lượng cao hơn, độ mở lớn hơn và tiến tới chuyên nghiệp hơn.

ong1.jpg


Ống zoom nhanh là xu hướng mới. Ảnh: Popphoto.

Trào lưu bình dân hóa DSLR dẫn tới sự ra đời của hàng loạt các ống zoom bình dân dùng làm ống kit. Các ống này thường có 2 độ mở, thấp nhất cũng là f/4-5,6. Do độ mở không lớn, lại thiếu IS, các ống này để đảm bảo ảnh đẹp phải chụp ở tốc độ cửa trập chậm hơn. Vì thế các ống zoom bình dân vẫn được coi là dạng các ống "chậm".

Những ống kính đắt tiền hơn có độ mở lớn hơn (f/2,8 hay thậm chí f/2,0) và cố định (1 độ mở cho cả dải zoom) cho phép máy ảnh có khả năng chụp với tốc độ cửa trập nhanh hơn, tránh được nhòe ảnh trong điều kiện ánh sáng yếu. Chính vì thế những ống có độ mở f/2,8 trở xuống thường được gọi là các ống kính nhanh (fast lens).

Xu hướng gần đây cho thấy, cả các nhà sản xuất máy ảnh và ống kính lẫn những hãng thứ ba chỉ chuyên sản xuất ống kính đang dần đưa ra thị trường những ống zoom "nhanh" hơn, công nghệ tiên tiến hơn và một mức giá hợp lý.

Lấy Nikon làm ví dụ. Trong số 16 ống Nikkor được giới thiệu kể từ tháng 1/2007 đến nay, 10 ống trong số đó đã được cải thiện độ mở ống kính (bao gồm cả hai ống siêu tele f/4), 6 ống độ mở f/2,8, một ống f/1,8 và một ống f/1,4. Lần ngược lại quá trình sản xuất của hãng này một năm rưỡi trước thời điểm tháng 1/2007, chỉ có 2 ống trong số 8 ống được giới thiệu là có độ mở f/2,8, còn lại đều là những ống 2 độ mở rẻ tiền.

Đây quả thực cũng là một tin tốt bởi lẽ gần như tất cả các hãng sản xuất ống kính đều bắt đầu tung ra các sản phẩm mới là các ống zoom tốc độ nhanh, từ những ống siêu rộng Tokina 11–16 mm f/2.8 tới siêu dài Sigma 200– 500 mm f/2.8. Bên cạnh việc mở rộng độ mở, các ống zoom thế hệ mới còn có nhiều thiết kế cải tiến hơn, chất liệu và quy trình sản xuất tiên tiến hơn.

ong2.jpg


Ống kính Pentax 16-50. Ảnh: Popphoto.

Một số nhân tố được cho là ảnh hưởng đến xu hướng đua sản xuất ống kính nhanh có thể kể đến.


Sau khi đã sản xuất đủ nhu cầu ống zoom bình dân giá rẻ hai độ mở (f/4–5.6) phục vụ các máy DSLR, các nhà sản xuất đang quay trở lại sản xuất các ống kính nhanh để lấp đầy các phân khúc bị bỏ sót trong các dòng ống kính chất lượng cao của mình.

Với sự ra đời của thân máy DSLR full-frame mới (EOS 5D, D700…), nhu cầu ống zoom chuyên nghiệp dành cho thân full-frame cũng tăng cao. Các ống zoom thế hệ mới này ứng dụng những thiết kế hệ thấu kính cũng như phủ mặt tiên tiến hơn, thiết kế chuyên cho các máy digital hơn là các ống cao cấp trước đây vốn thiết kế cho máy phim truyền thống.

Những tay máy chuyên nghiệp khi nâng cấp thân máy với độ phân giải ngày một cao hơn cũng có nhu cầu nâng cấp luôn cả ống kính, bởi lẽ các ống kính đời cũ có vẻ như đã không đủ hỗ trợ chi tiết nét tối đa cho những cảm biến có độ phân giải từ 16 triệu đến 21 triệu điểm ảnh.

Nhu cầu của những tay máy DSLR bán nghiệp dư về những ống kính nhanh hơn cũng đang tăng cao bởi lẽ sau một quá trình chụp, họ bắt đầu nhận thức được lợi thế của những ống kính có độ mở f/2,8.

ong3.jpg


Thế hệ các ống zoom nhanh còn đang chuyển từ siêu rộng tới siêu dài. Ảnh: Popphoto.

Thực chất của vấn đề tựu trung lại chỉ là ánh sáng.
Với các ống có độ mở lớn (thường là f/2,8 hoặc lớn hơn), lượng ánh sáng vào cảm biến sẽ nhiều hơn, máy ảnh có thể chụp với tốc độ cửa trập nhanh hơn. Với tốc độ nhanh hơn, các nguy cơ rung máy được giảm thiểu, ảnh vẫn đảm bảo độ nét mà không phải dùng tới đèn flash hay chân máy trong điều kiện ánh sáng yếu. Thêm vào đó tốc độ nhanh hơn còn cho phép máy ảnh chụp các cảnh chuyển động tốt hơn, có thể "đóng băng" đối tượng đang chuyển động, rất thích hợp cho các phóng viên hay những người ưa thích chụp thể thao hay chụp con trẻ.

Các ống zoom có độ mở lớn như f/2 hay f/2,8 bên cạnh đó còn có khả năng làm nhòe nền hữu hiệu, đồng thời làm tăng độ nét cho đối tượng, làm nổi bật đối tượng và tạo cho ảnh có chiều sâu hơn.

Các thế hệ ống zoom nhanh hiện nay trải dài từ các ống siêu rộng tới các ống siêu dài. Chúng có đủ loại, phục vụ đủ mọi nhu cầu chụp ảnh nảy sinh trong cuộc sống, từ ảnh chân dung, cận cảnh, thể thao, đám cưới tới phục vụ nghiệp vụ các phóng viên.

Mặc dù các ống zoom độ mở lớn, chất lượng cao không mấy khi đi cùng với giá rẻ, nhưng nói chung chúng cũng xứng đáng với mức độ đầu tư. Chúng sẽ có tuổi thọ lâu hơn thân máy, đồng thời vẫn giữ giá tới hàng năm trời kể cả khi muốn bán đi. Và trên hết, chúng góp phần rất lớn trong việc tạo nên những bức ảnh chất lượng cao.

ong5.jpg


Máy ảnh Full Frame góp phần phát triển ống zoom tốc độ cao. Ảnh: Newphoto.

Trong số các ống zoom tốc độ cao xuất hiện trong những tháng gần đây, hầu hết đều là các ống góc rộng và có dải zoom từ góc rộng tới tele thường (ở kích cỡ full-frame).
Trong vòng một năm rưỡi trở lại đây, các nhà sản xuất đều ít nhất giới thiệu một nếu không muốn nói là nhiều các ống kiểu này. Có thể kể đến những thế hệ mới như Canon 16-35mm f/2.8L II, Nikon 14–24mm f/2.8 và 24–70mm f/2.8, Sigma 24–70mm f/2.8, Sony 16–35mm f/2.8 và 24–70mm f/2.8. Tất nhiên không thể không kể đến những người khởi xướng đầu tiên cho trào lưu này từ những năm 2003, đó là Tamron với ống 28–75mm f/2.8 với mức giá cho đến giờ vẫn thuộc hàng rẻ nhất, chỉ khoảng 400 USD.

Đóng góp không nhỏ trong xu hướng sản xuất ống zoom tốc độ cao phải kể đến sự xuất hiện ngày càng nhiều những thân máy full-frame thế hệ mới như Sony Alpha 900, Canon EOS-1Ds Mark III và EOS 5D Mark II, Nikon D3X và D700… so với số lượng thân full-frame vốn vô cùng ít ỏi trước đây.

Hơn nữa, công nghệ quang học cũng đã có những bước phát triển mới kể từ những thân máy DSLR đầu tiên. Với thiết kế mới, công nghệ phủ mặt mới cũng như chất liệu thấu kính mới giúp cải thiện độ méo hình và hiệu ứng làm mờ vốn chỉ có trên các ống góc rộng giờ đây cũng đã được ứng dụng trên các ống kính zoom dải ngắn. Tuy nhiên, đối với những ống có dải zoom dài thì công nghệ vẫn vẫn chưa có nhiều tiến triển lắm.

Thêm một lý do lý giải cho việc các ống zoom góc rộng trở nên "nhanh" hơn, đó là tính năng chống rung. Đối với các ống zoom góc rộng mới, thì thiết kế nhỏ gọn của nó khó có thể tích hợp thêm hệ thống chống rung vướng víu vào bên trong ống kính, Vì vậy giải pháp hợp lý nhất để ống kính hoạt động hiệu quả trong điều kiện ánh sáng thấp chính là việc mở rộng độ mở.

Ống Canon EF 16–35mm f/2.8L II USM AF là một minh chứng cho xu hướng này. Mặc dù giá cả khá đắt đỏ (khoảng 1.500 USD), đây là một trong những ống kính zoom góc rộng khá hoàn hảo mà lại không bị méo hình (vốn là một nhược điểm lớn nhất của các ống góc rộng). Dù không IS, ống kính đẳng cấp L này cho hình ảnh với độ sắc nét và tương phản ở mức xuất sắc trong các thử nghiệm ống kính, độ méo hình được kiểm soát rất tốt, hơn hẳn phiên bản I của chính ống này ra mắt 6 năm trước đây (3/2003).

Không chỉ xâm chiếm lãnh địa những dải zoom ngắn, một số ống zoom dài cũng bắt đầu đi theo trào lưu này, trong đó phải kể đến siêu khủng Sigma 200-500 mm f/2.8 EX DG APO IF. Nặng tới 15,8 kg, dài 73,6 cm, rộng 25,4 cm, có pin xạc riêng phục vụ cho motor zoom và lấy nét và giá tới 29.000 USD, siêu khủng này thực ra ở quá tầm với của hầu hết những dân chơi ảnh chuyên nghiệp thông thường. Ví dụ này cũng chỉ để chứng tỏ, các ống zoom dù cho có thuộc dải dài hay ngắn, tele hay góc rộng, muốn tiến tới đẳng cấp chuyên nghiệp không gì khác hơn là phải theo xu hướng có độ mở ngày một lớn hơn.


Theo Sohoa


 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Olympus khủng hoảng vẫn lãi

Trong khi ngành công nghiệp hình ảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi khủng hoảng, nhưng Olympus vẫn lãi 1,8 tỷ yên.

ol1.jpg


Olympus chỉ lãi chút ít, do khủng hoảng. Ảnh: Photographyblog.

Mặc dù lợi nhuận sau thuế tính đến hết 30/6 của Olympus đạt 1,8 tỷ yên (khoảng 18,5 triệu USD), nhưng số lãi này vẫn còn kém xa so với mức 6,5 tỷ yên (gần 67 triệu USD) so với cùng kỳ năm ngoái. Khi nên công nghiệp hình ảnh bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng toàn cầu nặng nề nhất, Olympus cũng bị ảnh hưởng với với doanh số bán ra tại hai thị trường lớn là Bắc Mỹ và Châu Âu sụt giảm tới phân nửa. Châu Âu còn 13,9 triệu yên (143 nghìn USD) so với 27,7 triệu (285 nghìn USD) cùng kỳ năm ngoái, còn Bắc Mỹ chỉ còn 8,7 triệu yên (90 nghìn USD) so với 17,2 triệu (177 nghìn USD) cùng kỳ.

Các dòng sản phẩm khác của Olympus cũng chịu chung tình trạng sụt giảm tương tự nhưng không tồi tệ bằng lĩnh vực máy ảnh kỹ thuật số. Bù lại, doanh số bán ra tại thị trường nội địa của các dòng sản phẩm khác như hệ thống chẩn đoán, các thiết bị phẫu thuật hay nội soi cũng như các giải pháp truyền thông thông tin vẫn tăng trưởng dù không nhiều.


Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
LG ra LCD siêu mỏng không viền

Hai mẫu LCD mới của LG, SL80 và SL90, được thiết kế một tấm kính liền phủ kín toàn bộ mặt trước màn hình.

lg1.jpg


Mẫu TV SL80. Ảnh: Cnet.

SL80 là phiên bản mới nhất của dòng LCD, còn SL90 là phiên bản mới nhất của dòng LED. Thay vì thiết kế màn hình nằm trong một khung truyền thống, cả hai model mới sử dụng thiết kế dạng một tấm kính liền phủ kín toàn bộ mặt trước màn hình. Tuy nhiên ở model SL80, cạnh phía trên hơi vát về phía sau và cạnh dưới chừa một dải nhỏ hẹp cho các phím điều khiển. Tương tự như các model trước đây, hai phiên bản mới này cũng được trang bị hệ thống loa Invisible Speaker do phù thủy âm thanh Mark Levinson thiết kế, vừa kín đáo nhưng vẫn có trường âm rộng và rõ ràng.

lg2.jpg


Thiết kế không viền của SL80. Ảnh: Cnet.

LG gọi thiết kế mới này là kiểu "không viền" với ý nghĩa mặc dù khi bật lên thực chất màn hình vẫn có viền bao quanh nhưng xét về mặt vật lý thì phía trước do được một tấm kính liền bao trùm nên không còn ranh giới giữa đâu là viền và đâu là màn hiển thị nữa.

lg3.jpg


SL90 ứng dụng công nghệ đèn nền LED tiên tiến. Ảnh: Cnet.

Phiên bản SL80 vẫn sử dụng đèn nền truyền thống CCFL nhưng thật đáng ngạc nhiên là mặc dù vậy, màn hình vẫn đạt tới độ mỏng tới 4,5cm. SL80 tích hợp công nghệ quét hình TrueMotion 240 Hz hỗ trợ giảm rung giật trong các pha hành động, có độ tương phản động 150.000:1. Phiên bản SL90 full-HD 1080p ứng dụng công nghệ đèn nền LED tiên tiến hơn nhưng tốc độ quét lại chỉ 120 Hz. Tuy nhiên, nhờ có công nghệ LED, độ tương phản động lên tới 3.000.000:1 và độ mỏng của SL90 giảm xuống chỉ còn 2,8 cm.

lg4.jpg


SL90 với thân hình siêu mỏng. Ảnh: Cnet.

LG SL80 HDTV sẽ có mặt trên thị trường vào tháng 8 với các phiên bản 42", 47" và 55" với giá lần lượt là 1.599 USD, 1.899 USD và 2.799 USD. Phiên bản SL90 sẽ ra mắt với hai kích cỡ là 47" và 55", tuy nhiên, giá cả của hai kích cỡ này vẫn chưa được công bố.

Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Dân Mỹ chuộng HDTV

Quá nửa số hộ gia đình tại Mỹ đã chuyển sang dùng TV độ nét cao và màn hình lớn hơn 32 inch.

my1.jpg


Quá nửa số hộ gia đình Mỹ chuyển sang dùng TV độ nét cao. Ảnh: Slipperybrick.

Theo thông báo từ Hiệp hội cáp và viễn thông CTAM (Cable & Telecommunications Association for Marketing), tỷ lệ các hộ gia đình sở hữu màn hình HDTV tại Mỹ đã lên tới con số 52%. Đây là một sự tăng trưởng vượt bậc, từ 35% năm ngoái.

Thông báo này cũng cho thấy xu hướng mua màn hình lớn (từ 32 inch trở lên) cũng đã tăng lên dù chưa nhiều, 59% so với 52% năm ngoái.

Khảo sát thị trường của Hiệp hội này cũng cho thấy xu hướng rằng: Những người chuyển nhà sang nhà mới mua HDTV tăng từ 15% lên 26%. Do vậy, các dịch vụ HD đi kèm cũng tăng 8% lên 15%.

Nghiên cứu này được thực hiện bằng cách lựa chọn ngẫu nhiên 1.144 người từ 18 tuổi trở lên trong tháng 6. Theo tổ chức này, sai số sẽ chỉ khoảng +/- 3,5%.


Theo Sohoa
 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Zune HD sẽ bán từ 8/9

Zune HD có thể được bán ra từ ngày 8/9 tới đây với hai phiên bản 16 và 32 GB, model này sở hữu màn hình cảm ứng mượt mà.

7.jpg


Zune HD có bàn phím ảo để soạn thảo. Ảnh: Yahoo.

Một hình ảnh chụp lại thời điểm xuất hiện chiếc máy chơi nhạc này từ hãng bán lẻ Best Buy cho thấy, Zune HD sẽ có mức giá 220 USD và 290 USD dành cho hai phiên bản 16 và 32 GB.

Trong khi đó, các bức ảnh chụp lại Zune HD từ những người đầu tiên sử dụng máy cho thấy, model này có bàn phím QWERTY ảo trên màn hình, cho phép duyệt web, soạn thảo tốt hơn, các nút bấm khi chạm vào sẽ phóng to lên, ký tự không mở pop-up như iPhone, iPod Touch.

Video Zune HD khoe màn hình cảm ứng trơn mượt
Hình ảnh bản dùng thử Zune HD

Theo Sohoa


 

PhuongNguyen

Well-Known Member
Loa triệu 'đô' với thiết kế kỳ lạ

Ultimate là hệ thống loa làm thủ công khổng lồ của Transmission Audio, kết hợp driver dạng mành và dạng nón.

Cái tên Ultimate không chỉ hàm ý về kích thước mà còn về giá tiền bởi mỗi loa là 1 triệu USD (18 tỷ đồng), do đó, cả bộ 2 loa là 2 triệu USD, khiến nó trở thành hệ thống đắt nhất thế giới.

trie1.jpg


Loa Ultimate. Ảnh: Ultimate AVmag.

Ultimate bao gồm 12 khoang riêng biệt, lưỡng cực và để mở mặt trước, mỗi khoang cao gần 2,1 mét. Tính tổng số thì các kênh trái và phải bao gồm 2 khoang thể hiện tần số siêu cao (ký hiệu L1 và R1), 4 khoang dành cho tần số cao và trung (ký hiệu L2, L3, R2, R3), 2 khoang cho âm trầm (L4 và R4) và 4 khoang truyền tải âm siêu trầm (L5, L6, R5, R6).

trie2.jpg


Sơ đồ bố trí driver của Ultimate. Ảnh: UltimateAVmag.

Các khoang này được sắp xếp dưới dạng ảnh gương, trong đó tần số thấp ít định hướng hơn nằm ở giữa, tần số cao nằm dần về phía ngoài rìa để tạo ra trường âm stereo. Việc đặt các khoang nằm nối tiếp nhau khiến cả hệ thống trải dài đến 12 mét và nặng hơn 4 tấn, đòi hỏi phòng nghe phải rất rộng và sàn nhà vững chắc.

trie3.jpg


Driver dạng mành thể hiện tần số siêu cao, cao và trung. Ảnh: UltimateAVmag.

Những khoang thể hiện tần số siêu cao, cao và trung dùng driver dạng mành của hãng, với tổng số 67 mét mành loa 2 inch cho âm cao và trung; 4,2 mét mành 1 inch cho âm siêu cao. Các loa mành này khiến hệ thống có độ méo tiếng rất thấp, dưới 0,02% ở độ lớn 99dB. Các khu vực đặt loa mành còn có tổng số 1.304 nam châm neodymium cực khỏe nhằm tăng sức mạnh và tăng cường độ động (microdynamics) cho hệ thống.

trie4.jpg


Driver dạng nón cho âm trầm và siêu trầm. Ảnh: UltimateAVmag.

Tần số thấp được điều khiển bằng các khoang trầm và siêu trầm nhưng dùng driver dạng nón. Mỗi khoang trầm có 24 nón 8 inch, trong khi mỗi khoang siêu trầm có 10 nón 15 inch. Giống như các khoang loa mành, những khoang này cũng là lưỡng cực, có baffle mở, tránh được hiện tượng "tô màu" cho âm thanh và hạn chế sự dội âm từ tường, trần và sàn nhờ thiết kế tán âm theo chiều dọc và ngang rất tốt.

trie5.jpg


Ampli công suất đi kèm với loa. Ảnh: UltimateAVmag.

Ultimate đi kèm ampli công suất riêng, chính là 6 ampli BP-1 của Bridge Audio Laboratory. Mỗi ampli mono kép sản sinh ra 500 Watt mỗi kênh, khiến tổng công suất là 6 Kilowatt. Nghe có vẻ quá lớn, nhưng hệ thống thực tế còn có thể xử lý công suất gấp đôi như thế trong thời gian liên tục, thậm chí đỉnh điểm là 62 Kilowatt trong 10 Miligiây.

Cả 6 ampli này được điều khiển bằng một pre-ampli BC-1 đi kèm. Nhì chung, riêng đồ điện đã tốn mất nửa triệu USD, chiếm 25% giá trị của hệ thống.
Đáp ứng tần số của Ultimate rất ấn tượng: 15 Hz đến 50 kHz; và nó có thể chơi rất lớn, tới 143 dB liên tục và 146 dB ở công suất max do độ nhạy là 100 dB mỗi Watt ở mức trở kháng 8 ohm.


Theo Sohoa
 
Status
Không mở trả lời sau này.
Top